Phương pháp Mộng Quán Thành Tựu là một trong Naropa Lục pháp ;
Phương pháp nầy của Mật Tông Tây Tạng đem tâm lý , khí , mạch
của con người và chú ngữ kết hợp lại ; đây là một phương pháp
huấn luyện dùng để kết hợp tâm , sinh lý và linh lực của con
người lại làm một ; trong quá trình huấn luyện phương pháp nầy
sẻ mang ý thức của con người đi sâu vào trạng thái siêu thức ;
và chỉ khi con người đi vào được trạng thái siêu thức , thì
các loại siêu năng lực , siêu ý thức sẽ là cơ bản cho việc khai
phóng năng lực tâm linh và những khả năng tiềm ẩn của con
người .
Tuy nhiên , sự hoạch đắc siêu năng lực tâm linh xuyên qua mộng
quán thành tựu không phải là mục đích cuối cùng ; mà khi con
người đi sâu vào giấc ngũ , đưa tâm thức lên đến trạng thái siêu
ý thức , để làm hiển lộ tự tính quang minh là bản lai diện
mục của mình , từ đó sẻ hiểu thấu được sự bí mật của nhân
sinh vũ trụ , nắm được con đường siêu xuất thoát ly sanh tử luân
hồi , tự giác tiến hành cuộc biến hóa thăng hoa cho sanh mạng
của mình , biến sự lưu chuyển của sanh tử , thay đổi những khổ
nảo không viên mản của sanh mạng thành Thường – Lạc – Ngả –
Tịnh , hưởng được hạnh phúc vĩnh hằng , một sanh mạng tự do
tuyệt đối viên mản . Đó mới là mục đích cuối cùng trong quá
trình phấn đấu và sự trở về cuối cùng của một sanh mạng
được phát triển và được tiến hóa viên mản .
Nói đến Mộng Du , thì nhiều người liên tưởng đến một chứng
bệnh mộng du . Chứng bệnh nầy được các nhà sinh lý học trong
phòng thí nghiệm khám phá ra rằng , người đang trong cơn mộng du
, thì thật ra là người nầy đang ở trạng thái ngũ mê rất sâu
đến thời kỳ thứ 3- 4 trầm sâu trong giấc ngũ mê . Đối với
chứng mộng du , Đông Y nhận rằng : Tâm chủ Huyết mà tàng Thần
trí , Gan tàng Huyết và là nơi ngụ của Hồn ; tức tâm tàng
Thần , Can tàng Hồn ; khi khí cơ của hai tạng Tâm và Can không
điều hoà , thì Thần không chủ vị và hồn không có chổ dựa ,
nên Thần và hồn không an ; nên Hồn đi theo sự dẩn dụ của Thần
trí trong lúc ngũ mà tạo nên chứng mộng du .
Nhưng chúng ta nói ở đây , không phải là chứng bệnh mộng du
thường tình , mà chúng ta đang nói đến Mộng Quán Thành Tựu
Pháp là một pháp môn tu trì cao cấp của Mật Tông Tây Tạng ,
còn gọi là Mộng Du Càn Khôn đại pháp .
Sinh mạng của con người do Thọ Mạng – Thân Nhiệt và Tâm Thức
hợp thành , khi ba yếu tố nầy giải thể , thì con người bị
chết . Trong thực tế , chỉ có sự phân ly của Ý thức và Thân
Nhiệt ; do đó thân nhiệt nơi nào trên thân thể người chết cuối
cùng biến mất , thì nơi đó là cửa ngỏ cuối cùng cho thần
thức con người rời khỏi cơ thể . Theo đó , người ta nói rằng :
Đỉnh Thánh , Nhản Thiên Sanh , Tâm Nhân , Phúc Tu La , Giang Quỷ ,
Tất Súc Sinh , Lưởng Túc Đọa Địa Ngục ;Trên đỉnh đầu là Thánh
, mắt là sanh trên trời , ở tim là người , ở bụng là quỷ tu
la , ở hậu môn là quỷ , ở đầu gối là súc sinh , ở hai chân là
đọa địa ngục ; nếu Thần thức đi ra ở đỉnh đầu thì sẻ được
siêu phàm nhập Thánh , được vãng sanh về Tịnh Độ Phật Quốc .
Mọi người đều có nghe Phật Sống tái sinh , khi một vị Phật
sống viên tịch , linh hồn lìa khỏi xác , sẻ chuyển qua trong
một cơ thể của một trẻ sơ sinh vừa mới chào đời ; đứa trẻ
nầy là Phật sống được tái sinh , được xem là hóa thân của
Phật , để tiếp tục hóa độ chúng sanh .
Linh hồn được nói đến ở đây , thực tế là đệ bát thức là A
lại Da Thức của con người sau khi chết ; khi bảy thức đầu đả
tan rả , thì thức thứ tám nầy là A lại Da Thức , sẻ do sự
dẩn dắt của nghiệp lực Thiện Ác , đi thọ báo trong sáu nẻo
luân hồi .
Khi có cơ hội nhân duyên hòa hợp , sẻ được tái sanh vào nhân
đạo , và bản ngả sẻ được tạo nên do sự hòa hợp của ngũ uẩn ,
và ngũ uẩn là căn bản của sự tổ hợp và hình thành thế gian
và cấu thành vũ trụ vạn hữu .
Ngũ uẩn gồm có Sắc – Thọ – Tưởng – Hành – Thức ; mà Sắc là
chỉ nhục thân của con người , do tứ đại Đất – Nước – Gió – Lửa
tạo thành : Đất là chỉ những vật rắn , cứng chắc trong thân
con người như xương cốt , da thịt ; Nước chỉ máu huyết , các
chất nội tiết , mồ hôi , các chất bài tiết ...., nói chung
những chất lỏng trong cơ thể ; Lửa là chỉ thân nhiệt cùng sinh
mạng lực chu lưu trong cơ thể con người ; Gió là chỉ khí hô hấp
và các loại khí lực trong cơ thể .
Thọ – Tưởng – Hành – Thức là chỉ tinh thần tức là Tâm ; Thọ
là do tiếp xúc với cảnh vật mà sinh ra trạng thái tâm lý của
sự cảm thọ , tương đương với cảm tình trong môn Tâm lý Học .
Tưởng là do sự thu nhận những hình tượng bên ngoài rồi từ đó
hình thành ra những khái niệm về những hình tượng đó . Hành
là đối cảnh mà sinh ra sự quyết định của nội tâm làm ngôn ngữ
và hành vi được phát sanh ra ; Thức là chỉ sự phân biệt của
ý thức , được gọi là sự nhận thức trong tâm lý học .
Trong ngũ uẩn thì Thức được xem như là Bản ngã của con người ,
nó có khả năng nhận thức được Sắc – Thọ – Tưởng – Hành là
những sở thuộc của nó ; nói một cách khách quan , những đối
tượng nhận thức gồm Thức và Danh Sắc ; Sự nhận thức đối
tượng chủ quan hay khách quan không phải là hai vật khác nhau ;
vì Thức là Thức trong Danh Sắc và Danh Sắc là Danh Sắc trong
Thức ( Thí dụ như ta thấy bông hoa , thì cái ta thấy không phải
là bông hoa thiệt , vì hình bông hoa được ta nhận thức chỉ do
sự phản chiếu của ánh sáng đi vào mắt ta , và chuyển thành
những tín hiệu sinh hóa điện trường sau đó hiện ra ở vùng hậu
nảo , mà trở thành sự nhận thức về bông hoa mà thôi , chứ
cái mà ta nhận thấy chỉ là thức của ta nhận thấy , chứ cái
ta thấy không phải là bông hoa thật ) ; cho nên nói : Thức duyên
Danh Sắc , Danh Sắc duyên Thức , cái nầy sanh thì cái kia sanh ,
cái nầy diệt thì cái kia diệt ; vạn pháp duy tâm tạo vậy .
Thức được phân chia ra thành bát thức : Mắt – Tai – Mủi – Miệng –
Thân – Ý – Mạt Na – A Lại Da ; mà A Lại Da thông thường người ta
cho là Linh hồn , còn gọi là Thần thức hay là Linh Thể , trong
Duy Thức Học còn có thức thứ chín là Cưu Ma La Thức được
dịch là Vô Cấu Thức – Bạch Tịnh Thức là căn bản của sự giải
thoát để thành Phật ; Thức nầy có khả năng hội chứng được
chân tâm của thực thể ; Thức nầy không sanh không diệt , thanh
tịnh vô nhiểm ; thức nầy được gọi khác đi là Chân Tâm ; nhưng đa
số công năng của nó lại được nhiếp vào A lại Da thức để sở
tàng vô lậu chủng tử .
Vấn đề tu trì căn bản trong Phật Pháp là Tu trì cái “ Thức”,
từ đó để thoát ly sanh tử , siêu xuất lục đạo luân hồi , minh
tâm kiến tánh , tịnh hóa bát thức tâm điền , chuyển thức thành
trí , thường lạc ngã tịnh vậy .
Trong Mật Tông Tây Tạng có Pháp Bổn Tôn , pháp nầy có thể tu
tập trong một thời gian ngắn , dùng nội khí tu luyện có thể
hình thành “ Thiên Thân ” đồng hình với Bổn Tôn của mình ; mà
Vô Thượng Du Già gọi là “Ảo Thân ” .
Ngoài ra , Vô Thượng Du Già của Tạng Mật còn có một số pháp
môn đặc thù có thể giúp con người siêu xuất sanh tử luân hồi
như Pháp Phowa – Trung Ấm Thành Tựu Pháp – Hoán Thể Pháp – Tự
Tại Chuyển Thân Pháp – Đoạt Xả Pháp .......
PHÁP PHOWA
颇哇法
Pháp Phowa , được dịch ý là Chuyển Thức Pháp ; lợi dụng con
người trong lúc chết , dùng Thần Thức hợp cùng Nội Khí đi ra
khỏi cơ thể từ đỉnh đầu mà vảng sanh Phật quốc , đạt được sự
giải thoát khỏi sanh tử . Trong lúc còn sống bình thường dùng
quán tưởng phối hợp cùng phương pháp đề khí để đả thông con
đường ở đỉnh môn , tức là Khai Đảnh , quán tưởng Phật A Di Đà
đang ngồi trên đỉnh đầu ; khi tu tập được thành tựu ; có thể
làm chủ được sanh tử ; sau khi thành tựu được pháp nầy , cần
tu phối hợp với pháp Trường Thọ Phật ; Để khi lâm chung hay
muốn vảng sinh sớm theo ý muốn của mình , có thể y theo pháp
nầy , đem Thần Thức của mình đi theo con đường quen thuộc đã
được thực tập thường ngày , đưa lên đỉnh đầu nhập vào trong tim
của Bổn Tôn , tức thì có thể vảng sanh đến ngay nơi tịnh độ
của Bổn Tôn . Pháp nầy có thể tu hành thành tựu ngay lập tức
trong 7 đến 21 ngày , là một con đường ngắn và nhanh nhất để
thành Phật .
Những hành giả đã từng tu Tạng Mật Đại Thủ Ấn , Đại Viên Mản
... đang ở trình độ trung cấp , nếu tập thêm pháp nầy , có
thể giúp hành giả nhanh chóng đạt đến sự giải thoát sanh tử
ngay .
TRUNG ẤM THÀNH TỰU PHÁP
中阴成就法
Trung Ấm Thành Tựu Pháp , còn gọi là Trung Ấm Thành Phật Pháp
, Bí pháp nầy sẻ được xử dụng khi con người khi sắp chết ,
dùng Vọng Niệm Chỉ Tức , Bản Tính Quang minh tự hiển lộ , gọi
là Tử Thời Quang Minh ( tức Ánh Sáng trong lúc chết ) – Thực
Tướng Trung Hữu .
Hằng ngày trong tu tập , hành giả vào trong Thiền Định với
trạng thái siêu giác , hành giả thường chú tâm để thể nhận sự
hiển lộ của Lâm Tử Bát Tướng , tức tám hiện tượng của trạng
thái cận tử ; từ đó thực tập lập lại quá trình nầy thường
xuyên cho đến mức thuần thục ; đương nhiên trong lúc sống hành
giả chưa thể kiến đạo thành Phật , nhưng khi đến lúc cận tử ,
hành giả tự nhiên sẻ chú ý thể nhận mà hòa nhập vào Bản
Tính Quang Minh để tức thời có thể siêu thoát sanh tử .
HOÁN THỂ PHÁP
换体法
Là một phương pháp thành tựu bí mật của hành giả du già , khi
cơ thể̀ đã xuy thối , hành giả có thể dùng phương pháp nầy
để hoán đổi chuyển di , mà có thể còn được sinh hoạt tồn tại
trên cỏi nhân gian ; Tại Ấn Độ và trong giới Đạo Gia cũng có
nhiều người tu trì phương pháp nầy .
Phương pháp nầy , đầu tiên cần tìm một xác chết , không phải
chết vì bệnh tật của một thanh niên khõe mạnh , sau đó dùng
thuật Phowa , đem thần thức của hành giả xuất ra ngoài , rồi
tiếp đến nhập vào xác chết nầy , như vậy xác chết của thanh
niên nầy sẻ sống trở lại và thân xác củ của hành giả vừa
rời khỏi sẻ bị chết đi , mặc dù thể xác củ của của hành
giả đã bị chết đi , tướng mạo cùng danh tính bên ngoài nay đã
bị thay đổi ; nhưng nhân cách cùng ý thức của hành giả lúc
trước vẩn còn giử được đầy đủ .
TỰ TẠI CHUYỂN SANH PHÁP :
自在转生法
Do thành tựu của sự tu học , hành giả có thể dể dàng chuyển
sanh tại trần thế để tiếp tục hoằng dương Phật pháp ; hành
giả nhờ đã nắm chắc và nhận thức được các cảnh giới trung
hữu cùng các ảo tướng của nó , thông qua đó hành giả có thể
chọn đúng cha mẹ nào có duyên với mình ; hành giả dùng chỉ
định nhập thai pháp , khởi đảo tưởng để nhập vào bào thai mới
, như vậy hành giả đã tự tại chuyển sanh hay là đã hóa sanh
rồi vậy . Đây là một phương pháp , mà đa số giới Phật giáo
tại Tây Tạng thường dùng , mà người đời thường gọi những linh
đồng chuyển thế nầy là Phật sống .
ĐOẠT XẢ PHÁP
夺舍法
Là đợi lúc đứa bé trong lúc mới sanh hay sau khi sanh , hành
giả dùng oai lực phước đức thần thông của mình , thỉnh cầu
thần thức của đứa bé rời khỏi , rồi sau đó hành giả đi vào
trong nhục thể mới nầy , nhờ đó hành giả được sinh tồn trên
cỏi trần mà vẩn còn bảo tồn được toàn bộ ký ức và ý thức
củ .
Do đó , phương pháp đoạt xả nầy , là chiếm lấy nhục thể của
người khác ; nhưng cơ hội nầy rất khó sở đắc , cùng phương
pháp nầy rất ẩn mật , không dể gì mà truyền lại cho người
khác ; nên có rất ít người nắm vững rỏ ràng về phương pháp
nầy .
Trong pháp du già của Mật Tông Tây Tạng , hành giả có thể
chuyển di thần thức của mình ra khỏi thân thể để đi đến một
nơi nào đó và làm những việc , mà nhục thân của hành giả
không thể đi đến đó làm được , sau khi hoàn tất công việc hành
giả trở về nhục thân của mình như trước ; phương pháp nầy được
gọi là Linh Thể Xuất Du hay Thần Thức Xuất Du ; còn bên Đạo
Gia gọi là Nguyên Thần Xuất Khiếu .
Thần Thức Xuất Du Pháp
hay Mộng Du Đại Pháp
Sau đây là phương pháp tập Thần Thức Xuất Du Pháp tức Mộng Du
Đại Pháp , mà Mộng Du Đại Pháp là một tiểu pháp môn , nằm
trong Mộng Quán Thành Tựu Pháp của Naropa Lục Pháp :
Khi hành giã đã tu tập thành công đại pháp nầy rồi , hành giả
có thể xuất thần thức du hành khắp mọi nơi và có thể trở
về một cách an toàn .
Phương pháp tu tập :
Mổi đêm trước khi đi ngủ , hành giả dành thì giờ tương ứng
thích hợp rộng rải cho bài tập . Trước tiên , Hành giả ngồi
cho ngay ngắn , chắp hai tay lại trước ngực , dùng tưởng tượng
đem trái tim của mình dời đến ngay giửa ngực , tức là Tâm Luân
giữa trung mạch , tiếp đến hành giả tưởng tượng trái tim của
mình biến thành một hoa sen trắng nằm trên một đài hoa màu xanh
lá cây , sau đó hành giả tưởng tượng trong hoa sen đó hiện lên
một chủng tử tự của Bổn Tôn đã ban cho , chủng tử tự nầy
hiện ra thật tinh khiết và rỏ ràng .
Tiếp đến hành giả lại tưởng tượng , ở trên đỉnh đầu của mình
có một hoa sen khác , trên hoa sen nầy có Bổn Tôn của mình đang
ngồi ; trong tâm niệm của hành giả lúc nầy phải tưởng niệm
tam vị nhất thể là Thượng Sư – Bổn Tôn – Đại Nhật Như Lai ;
hành giả tưởng tượng trung mạch của Bổn Tôn tương thông cùng
trung mạch của hành giả , đường tuyến dưới cuối cùng trung
mạch của Bổn Tôn cùng cùng tuyến dưới cuối trung mạch của
hành giả tương thông , hành giả tưởng tượng ở chính giửa hoa
sen của Bổn Tôn cũng có một đóa chủng tử tự được hình thành
bởi minh điểm màu trắng .
Sau đó hành giả niệm thỉnh văn sau đây :
Kính thỉnh chư Thượng Sư , thí cho đại gia trì
Mộng trung du càn khôn , phổ chúng chư chung thổ
Tiếp đến , hành giả tưởng tượng minh điểm của Bổn Tôn phát
quang chiếu sáng cùng minh điểm của hành giả tương chiếu , như
hút lấy lẩn nhau vậy ; tiếp đến hành giả tưởng tượng minh
điểm chủng tử tự của hành giả bị minh điểm của Bổn Tôn hút
lấy , kéo minh điểm chủng tử tự của hành giả lên trên và nhập
làm một với minh điểm của Bổn Tôn thành nhất thể . Một lúc
sau , hành giả tưởng tượng , đài hoa sen màu xanh lá cây có hoa
sen trắng đang nằm ở tâm luân của hành giả , lúc nầy nó phát
sanh ra một sức hút rất mạnh , nó hút lấy minh điểm chủng tử
tự của hành giả đang nhập một với Bổn Tôn , phải tách rời ra
và đi theo ánh sáng trong trung mạch mà đi lần xuống , trở lại
nằm trong hoa sen trắng trên đài sen xanh nơi tâm luân của hành
giả .
Hành giả cứ tiếp tục thực tập như thế mổi buổi tập 21 lần , một thăng một giáng là tính một lần .
Đến cuối cùng , hành giả tưởng tượng đức Bổn Tôn cùng hoa sen
trên đỉnh đầu , đang chiếu sáng quang minh sáng ngời tủa ra khắp
nơi và hình ảnh nầy từ từ đi hạ xuống nhập làm một vào
trong minh điểm của hành giả , tức Đức Đại Nhật Như Lai – Bổn
Tôn – Thượng Sư cùng minh điểm của hành giả hợp thành tứ vị
nhất thể vậy .
Lúc nầy , hành giả có thể nằm xuống để ngủ , tốt nhất là
nằm với tư thế của phương pháp Đại Thán Thi , tức hành giả
nằm ngữa , hai tay để xuôi xuống hai bên thân mình , hai chân hơi
dang ra , mời ngón chân hướng lên trời ; lúc nầy hành giả phải
có quyết tâm và ý tưởng mạnh là muốn nguyên thần của mình
xuất du ra ngoài trong khi hành giả đã ngủ , để nguyên thần của
hành giả đi đến một nơi nào đó mà hành giả muốn đến .
Trước khi hành giả đi vào giấc ngũ , toàn thân của hành giả
phải buông thả thư thái , hành giả tập tưởng tượng nguyên thần
của mình đi ra khỏi thể xác từ nơi đỉnh đầu ; trong quá trình
nguyên thần xuất ra khỏi thể xác , cơ thể lúc đó có thể bị
rung động mạnh , hoặc xuyên qua sự rung động nầy có thể làm
chiếc giường nằm cũng bị rung động theo ; hoặc có khi hành giả
cảm thấy cơ thể của mình hình như bị xé nát ; một điều quan
trọng là hành giả nên nhớ , hành giả thấy bất cứ điều gì có
xảy ra , hành giả vẩn cứ bình tỉnh , đừng nên lo sợ mà cứ
tiếp tục tu tập ; sau khi luyện tập được vài lần , hành giả
có thể an nhiên đi vào giấc ngũ , đến một lúc nào đó hành
giả sẻ đi đến một cảnh giới siêu giác nào đó trong giấc ngũ ,
tức nguyên thần xuất du . Trong lúc hành giả luyện tập , nếu
lở hành giả có vô tình rơi vào giấc ngũ , thì cứ việc ngũ
tự nhiên mà vô ngại , không sao cả .
Có một số người trong những giấc ngũ bình thường , cơ thể đột
nhiên bị chấn động mảnh liệt và người nầy có một cảm giác
như mình vừa bị rớt xuống từ trên cao ; thì đó là một hiện
tượng nguyên thần của người nầy đang sắp xuất ra khỏi cơ thể ,
nhưng đã bị nhục thể của họ hút trở lại . Thông thường người
nào , thường có những hiện tượng trên trong lúc ngũ , thì khi
tập phương pháp nầy sẻ dể dàng xuất nguyên thần hơn .
Khi nguyên thần đã thực sự xuất khỏi cơ thể , thì có thể nhìn
thấy nhục thể của mình vẩn còn nằm trên giường , và mình
vẩn cảm thấy bình thường , không phải vừa đi ra và đang ở
ngoài cơ thể , mà chỉ thấy là mình vẩn bình thường và cơ thể
đang ở ngoài mình vậy . Khi nguyên thần thật sự xuất ra ngoài
rồi , khi đi du hành đến đâu , thì hành giả sẻ có cảm giác
bình thường như lúc đi du hành bằng nhục thân vậy .
Do đó , hành giả cần phân biệt các trạng thái của Linh Thể
Xuất Du và trạng thái Nhập Định Mộng Trung Viển Thị hoặc
trạng thái đi vào Siêu Giác , đem về những thông tin từ xa , có
những khác biệt với những giấc mộng , có những cảnh mộng mị
bình thường khác .
Bình thường hành giả đi dạo chơi đến một nơi nào đặc biệt và
ưa thích , hành giả cần lưu tâm quan sát các chi tiết và tối
về trước khi đi ngủ , hành giả thành khẩn phát tâm nguyện mảnh
liệt , là trong giấc ngũ nguyên thần của hành giả sẻ đi đến
dạo chơi nơi đó ; đây cũng là những bài tập bổ ích hổ trợ cho
việc thành tựu Mộng Du Đại Pháp vậy .
Khi hành giả tập phương pháp nầy , cơ thể hành giả cần mặc
quần áo rộng rải , nằm cho thoải mái , loại bỏ những mệt
nhọc của cơ thể và những tình cảm căng thẳng , như vậy sẻ dể
xuất nguyên thần hơn .
Trong lúc tập Mộng Du Đại Pháp , Linh Thể của hành giả lần
đầu xuất ra ngoài , thì chỉ nên đi vòng vòng quanh nhà hay chỉ
đi đến những nơi gần ; khi nào đã quen thuộc việc xuất nhập ,
thì lúc đó hành giả chỉ cần tâm niện muốn đến nơi nào thì
hành giả sẻ hiện diện tại nơi đó ngay lập tức . Trong khi
nguyên thần hành giả xuất du , thì có một sợi dây ánh sáng
nối liền nguyên thần của hành giả với nhục thể , trong khi đó
nếu có ai chạm hay nhúc nhích nhục thể của hành giả , thì
nguyên thần sẻ được sợi dây ánh sáng nầy kéo về nhập một với
nhục thân ngay tức khắc .
Hành giả không nên lo sợ khi đả xuất nguyên thần ra ngoài cơ thể
, mà trong tâm hành giả lúc nào cũng thường thành khẩn , tâm
niệm mình cùng Đức Đại Nhật Như Lai , Bổn Tôn , Thượng Sư , tứ
vị nhất thể , tức mình cùng các vị nầy là một vậy , thì
niềm tin hộ trì của các vị nầy sẻ hộ trì cho tâm hành giả
được an định .
Khi hành giả nguyên thần xuất du , bất ngờ gặp những tình
huống kinh hải , thì hành giả chỉ cần niệm tụng chú ngử của
Bổn Tôn hay thỉnh cầu sự gia trì của Thượng sư là được ; nếu
do tình trạng quá căng thẳng , nguyên thần của hành giả không
thể nhập trở về nhục thân , thì hành giả cũng chỉ cần niệm
tụng chú ngử của Bổn Tôn hay thỉnh cầu sự gia trì của Thượng
sư , thì nguyên thần của hành giả sẻ tức tốc được nhập trở
về nhục thân một cách thuận lợi .
Giai đoạn kết thúc bài tập :
Sáng hôm sau , trước khi thức dậy , hành giả vẩn nằm trong tư
thể củ và kết thúc buổi tập , bằng cách quán tưởng hoa sen
từ từ thu búp lại , bao bọc lấy minh điểm chủng tử tự vào
trong giửa hoa sen , và hoa sen từ từ hóa trở lại hình trái tim
của hành giả và hành giả đưa trái tim của mình trở về vị
trí của nó ở bên trái lồng ngực như củ . Như vậy buổi tập đã
hoàn tất , hành giả có thể từ từ mở mắt , nhúc nhích chân
tay và từ từ ngồi dậy , với một cảm giác kiết tường , an lạc
, khõe mạnh và một ngày vui tươi đầy may mắn .
(st)
Tài liệu bên trên chỉ có tính cách nghiên cứu và tham khảo ,
mọi sự tu tập cần có sự hướng dẩn và chăm sóc của Minh Sư .
Tất cả những bất trắc , thiệt hại xảy ra cho thân tâm cá nhân
người tập hoàn toàn tự nhận mọi hậu quả do tự mình gây ra.