Cúng 49 Ngày: Siêu Độ Cho Thân Nhân - Nghi Thức & Giảng Giải

Lời Nói Đầu

Việc mất đi một người thân là một việc đau buồn, đôi khi khiến cho người ở lại vật vã, khóc hận, kêu gào.
Người xa lìa trần thế lại mang quá nhiều vướng mắc lúc ra đi: nào là nghiệp chướng bề bề chưa thanh toán dứt, nào là sân hận ngập trời không tiêu tan được, nào là những ẩn tình chưa kịp giải bày v.v…
Nói tóm lại, từ người ra đi cho đến người ở lại, tất cả đều bị chi phối bởi một chữ “CHẾT.”
Nếu chết là hết thì không có gì đáng nói! Nhưng khổ thay, thân xác chết nhưng linh hồn không chết, và vì linh hồn không chết nên tất cả những vướng mắc mà linh hồn lôi kéo theo, đã gây tạo sự phiền toái, sự vướng bận, trói buộc bước chân của linh hồn, khiến cho không thể nào cất bước dễ dàng trên con đường tìm chỗ thác sanh.
Do ở cái chết của người mình yêu quý, người mình tha thiết, người ở lại bắt buộc phải suy tư, để tìm ra cách gởi gắm cho hết tâm tình của mình, lòng thương yêu dạt dào của mình đến cho người quá cố.
Vong linh sau khi bỏ thân xác rồi, sẽ trở nên cô đơn, cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, rất cần… rất cần có Ai đó để giúp đỡ, để chỉ dẫn và nhất là làm cách nào để tháo gỡ những vướng mắc, buộc ràng, làm chùng bước tiến tới của vong linh.
Người ở lại biểu lộ tình thương yêu của mình, bằng cách giúp cho người đã ra đi về bên kia thế giới, được nhẹ nhàng cất bước; phải biến tình thương thành sức mạnh để đẩy vong linh đi đến nơi đến chốn.
Vong linh cần được siêu độ.
Thân nhân cần phải hành trì việc siêu độ.
Quyển sách: 49 Ngày Siệu Độ Cho Thân Nhân: Nghi Thức và Giảng Giải đáp ứng được nhu cầu cho cả đôi bên – người sống lẫn người chết.
Việc siêu độ đòi hỏi người chủ lễ, đem công năng tu tập của mình cộng với một tấm chân tình, thành tâm thành ý hướng dẫn và giúp đỡ cho vong linh tu tập trong 49 ngày, để vong linh buông bỏ được gánh nặng trên vai mình, trí huệ bừng sáng, nhận ra được hướng đi của mình, vong linh nhẹ nhàng cất bước.
Nếu người chủ lễ chưa từng biết tu tập, nhưng có được một tấm chân tình thật kiên cố, một tình yêu thương dạt dào, một ước nguyện vững chắc, một lòng tin tuyệt đối về việc mình làm, tất cả những điều đó sẽ tạo nên một Tâm Lực mạnh mẽ, giúp cho người chủ lễ hoàn tất việc siêu độ cho vong linh thân nhân của mình, một cách viên mãn và thành công.
Người chủ lễ còn sơ cơ, mới bước vào làm quen với Đạo, đem hết Tâm Lực của mình để vào việc siêu độ cho thân nhân quá cố, công việc này là một “Ngòi Nổ,” đẩy mạnh bước tiến của mình trên đường tu tập.
Nếu người chủ lễ đã từng tu tập, nhờ vào việc siêu độ cho vong linh, xem như đã gây tạo một công đức vô lượng vô biên, hồi hướng một phần công đức này đến cho vong linh, để làm hành trang đủ đầy trên đường thác sanh.
Mặc dù người thân của mình đã vĩnh viễn ra đi, nhưng mình vẫn có thể chăm sóc được cho người đó qua những cách thức tu tập, và chuyển cái trí huệ, cái công đức TU của mình đến cho người mình thương mến qua sự HỒI HƯỚNG, tạo nên một phương tiện rất là vững chắc, tốt đẹp cho người thương của mình ở bên kia thế giới, được ung dung tự tại mà ra đi.
Vì vậy, đây là điều vô cùng lợi lạc cho cả đôi bên.
Cho nên, người còn trên dương thế, phải hiểu thật tận tường ý nghĩa của những lời giải thích ở trong quyển sách này, vì vai trò của người chủ lễ vô cùng quan trọng, trong việc chỉ dẫn đường cho vong linh đi đến nơi đến chốn.
Muốn tỏ lòng thương yêu, nhớ nhung người thân của mình đã khuất bóng, không có gì hơn là TU TẬP và HỒI HƯỚNG công đức đó cho người thân của mình.
Đó là một cách duy nhất và chỉ một cách đó mà thôi.
Vì tính cách lợi lạc cho người sống lẫn người chết, quyển sách này được giảng giải rất tỉ mỉ và súc tích. Để có thể nắm vững mọi vấn đề, giúp công việc siêu độ được hoàn tất mỹ mãn, không thiếu sót, cần phải nên đọc đi đọc lại nhiều lần quyển sách để thâm nhập. Khi có việc cần phải sử dụng, sẽ tránh được sự lúng túng và thiếu sót.
Trong thời gian có “HỮU SỰ,” nếu không có cơ hội đọc qua trước quyển sách Siêu Độ này, người đảm nhận vai trò chủ lễ, nên dành thời gian tối thiểu là một ngày trọn để đọc thật kỹ lưỡng quyển sách này. Tóm tắt lại những công việc cần phải làm, phải chuẩn bị cho chính bản thân người chủ lễ, cho vong linh, cho bàn thờ, cho phần Nghi Thức và việc giảng Pháp.
Nên nhớ rằng: 49 ngày là thời gian “ĐẶC ÂN” để giúp vong linh hoán chuyển cảnh giới. Chậm lại việc siêu độ trong 1 hay 2 ngày để nghiên cứu thật kỹ cách thức siêu độ, sau đó thì nỗ lực để siêu độ cho vong linh trong một đường hướng đúng, đạt tới sự thành công; việc này vẫn tốt đẹp hơn là làm trong sự vội vàng, hối hả, thiếu sót, vừa mất thì giờ mà cũng không đem lại kết quả tốt đẹp.
Vong cần được siêu thoát và chỉ có được 49 ngày “Nóng Bỏng” để tu tập, để xoay chuyển tình thế. Sau 49 ngày thì khó lòng giúp đỡ cho vong linh lắm. Vong linh sẽ rơi vào tình trạng không siêu thoát, sẽ gặp muôn điều sầu khổ, rất uổng … rất uổng!!

Duyên Khởi

Việc siêu độ cho vong linh không phải là việc làm mới mẻ. Từ hằng bao lâu nay, công việc siêu độ trong 49 ngày cho vong linh vẫn có, và vẫn còn hành trì cho đến ngày hôm nay. Tuy nhiên, công việc làm này đã được thực hiện gần như cho lấy có, cho rồi việc.
Có bao giờ người chủ lễ đặt câu hỏi:
“Vong linh này đã siêu thoát chưa?”
Nếu có sự cảm nhận rằng vong chưa siêu thoát, thì việc trước tiên phải hỏi rằng:
“Việc hành trì nghi thức có đủ đầy hay không? Vong linh này đã vướng mắc gì khi lìa đời? Làm sao để giúp cho vong linh tháo gỡ những vướng mắc đó?”
Siêu độ cho vong linh là cốt ý muốn giúp cho vong linh siêu thoát, nhẹ nhàng cất bước tìm đường thác sanh. Nhưng khi làm công việc này, người chủ lễ lại tỏ ra rất thờ ơ, không để một chút tâm thành, cốt yếu là làm sao cho lẹ, cho xong.
Người làm việc siêu độ với một sự thản nhiên, không có một chút tình cảm trìu mến, không có một sự chắt chiu, sẽ không giúp được gì cho vong linh cả. Vì vậy, số vong linh không siêu thoát càng ngày càng đông.
Cõi Ta Bà ngày nay đang gặp nạn:
Đó là Vong tràn ngập lên dương thế!
Quy luật của Cõi Âm cũng rất chặt chẽ, trên nguyên tắc, vong linh không được phép tràn ngập lên dương thế.
Tuy nhiên, ngày nay, số người trên dương thế bị dựa nhập rất nhiều. Có vô số trường hợp đáng tiếc xảy ra; có những tai nạn mới thoạt nhìn thì cho đó là tai nạn thông thường, nhưng khi dùng trí huệ để phân tích và phán đoán, thì rõ ràng tai nạn xảy ra là do sự dựa nhập. Những người bị dựa nhập gây nên việc đáng tiếc nhưng sau đó, đã tỏ ra không biết rằng chính mình đã gây tạo điều không hay.
Còn có những trường hợp, người bị hôn mê sau nhiều ngày tháng, khi chợt tỉnh lại, bỗng đâm ra thông minh, khởi sắc hơn so với trước khi bị hôn mê.
Cũng có khi tỉnh lại mà nói bằng một ngôn ngữ khác, cũng có trường hợp tỏ ra rất ngu đần, không còn nhanh nhẹn, lanh lợi như xưa, v.v…
Còn rất nhiều trường hợp khác nữa, xảy ra không phải chỉ ở một nơi, mà hầu như trên toàn thế giới.
Vì không siêu thoát, nên vong linh không nhận ra được hướng đi đúng với nghiệp lực của mình.
Cũng vì không siêu thoát, nên vong không thể nào nhận được sự giúp đỡ của Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát trong việc tìm người đúng duyên của mình để thác sanh. Do đó, vong cứ ùa tràn lên dương thế và tự đi tìm, gây nên muôn điều phiền phức cho người trên dương thế.
Bên cạnh đó, vong lang thang cũng rất nhiều, số thân nhân nhìn thấy trong giấc mộng, những người thân quá cố đã lâu, quần áo tả tơi, đói khát cũng không phải là ít đâu!
Thật ra, vong lang thang là vong bị đọa trong địa ngục của chính họ: địa ngục lang thang.
Khi còn thấy thân nhân quá cố nhiều lần trong giấc mộng, điều đó có nghĩa là thân nhân không siêu thoát, dù rằng đã qua đời từ lâu, 30 năm hay 60 năm, thậm chí 100 năm về trước; đã không siêu thoát, thì dù mất đã bao lâu, cũng vẫn là không siêu thoát.
Thân nhân là những người duy nhất có thể nối kết được sợi dây tình cảm giữa vong linh và thân nhân. Vì vậy, việc siêu độ cho vong linh, muốn đem đến một kết quả tốt đẹp, thì chỉ có thể do thân nhân đảm nhận mà thôi.
Vong linh chỉ có được vỏn vẹn 49 ngày tu tập, thể hiện sự thành tâm sám hối, cải sửa của mình để vứt bỏ xuống gánh nặng mình mang trên vai, tìm cầu một sự nhẹ nhàng, sáng suốt, mà cất bước tìm đường thác sanh.
Chỉ có thân nhân mới có thể đem hết sức mình, nỗ lực cùng với vong linh tu tập, nhẫn nại, trì chí, dẫn dắt, giúp vong linh sáng trí lên, nhận ra điều sai trái mình đã làm để ăn năn, sám hối, và thần thức chân thành rung động.
Đối với những vong linh còn đang bị đọa đày nơi chốn Tam Đồ: Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh, sự giúp đỡ của thân nhân cũng không kém phần quan trọng.
Các vong linh này trông ngóng từng ngày, từng giờ, cốt nhục thâm tình của mình trên dương thế, giúp cho họ thoát được sự đọa đày.
Trong chiều hướng giúp đỡ cho vong linh vừa mới mất (còn trong thời hạn 49 ngày), hay đã mất từ lâu, mà thân nhân còn nghi ngờ là chưa siêu thoát, quyển sách 49 Ngày Siêu Độ Cho Thân Nhân: Nghi Thức và Giảng Giảiđược dày công biên soạn, hầu tiếp tay cùng thân nhân của người quá cố, tự mình siêu độ cho vong linh thâm tình của mình, bằng với tất cả tấm chân tình, bằng một tình thương dạt dào của người còn trên dương thế đối với người bên kia thế giới.
Việc giải thích, cắt nghĩa, chỉ dẫn cho vong linh phải chậm rãi, gọn gàng, không dài dòng để vong có thể lãnh hội và thâm nhập dễ dàng. Do đó, từ ngữ được sử dụng trong quyển sách này cũng theo chiều hướng đó, dùng những lời giản dị, dễ hiểu, ít danh từ Hán-Việt, rất lợi lạc cho cả vong linh lẫn người chủ lễ.
Một đứa bé vừa mới chào đời, được nâng niu, chăm sóc như thế nào, thì Thần Thức của một thân xác vừa mới lìa đời cũng phải được chắt chiu, trìu mến, thương yêu y như thế. Đứa bé được nuôi nấng, dạy dỗ cho nên người. Thần Thức được dẫn dắt, chỉ dạy để tìm được đường thác sanh.
Chu kỳ Sanh Tử, Tử Sanh, không ai tránh khỏi.
Cho nên, việc siêu độ sẽ không trừ một ai cả, lần lượt kẻ trước, người sau.
Ai cũng cầu mong cho mình được siêu thoát, xin hãy biến sự cầu mong này thành sức mạnh, đẩy Tâm Lực vững chắc của mình, trong việc giúp cho người đi trước, được ung dung tự tại trên đúng cảnh giới mình lựa chọn.
Xin hãy nhớ rằng: Nghi thức dù hay cách mấy mà việc hành trì không với một tâm thành, không với một tấm lòng tha thiết, đầy sự hững hờ, thì kết quả vẫn không trọn vẹn, không tốt đẹp được.
Xin đem Công Đức của Pháp Sự này hồi hướng cho khắp Pháp Giới Chúng Sanh:
Người sống tìm được muôn điều lợi lạc, hưởng trọn vẹn sự An Bình qua công năng tu tập.
Người đã xa lìa trần thế, được sự nồng nàn thương yêu của thâm tình ruột thịt Siêu Độ, để nhẹ nhàng cất bước.

Nam Mô A Di Đà Phật tác đại chứng minh!

Thần Thức Là Gì?

Một con người bằng xương bằng thịt, có cử động, nói năng được, nói tóm lại là một người sống, thì chia thành 02 phần rõ rệt:
  1. Một phần là thân xác của mình
  2. Và một phần là linh hồn của mình
Linh hồn đó ở trong một thân xác.

Nói Về Thân Xác

Nếu để linh hồn qua một bên (chỉ đề cập đến thân xác thôi) thì thân xác đó vẫn cử động được, vẫn di chuyển, vẫn hoạt động được, nhưng giống như một người máy. Tức là làm mà không biết mình làm, chỉ làm mà thôi. Cũng ăn, cũng uống, cũng ngủ, tất cả mọi thứ đều làm được với thân xác, chỉ thân xác mà thôi. Mắt, tai, mũi, lưỡi … thân xác đều có, nhưng:
  • Mắt nhìn thấy sự vật thì chỉ biết rằng Nhìn và Thấy, vậy thôi!
  • Tai nghe được tiếng động, biết được có tiếng động, vậy thôi!
  • Mũi ngửi được, biết rằng có mùi, chỉ ngửi, vậy thôi!
  • Lưỡi nếm được, biết rằng có một cái vị, nhưng chỉ biết được bao nhiêu đó mà thôi.
  • Tay sờ vào một vật gì thì chỉ biết hành động sờ nhưng không phân định được.
Tóm lại là, với ngũ căn thì đều nhận biết nhưng không rõ chi tiết.
Tuy nhiên, nếu thân xác đó có được một linh hồn ở bên trong của thân xác, thì chính linh hồn đó mới tạo ra những cái thức. Khi đó, ngũ căn không chỉ đơn thuần là thấy, nghe, ngửi, nếm, sờ mó. Tất cả những hành động của ngũ căn đều có sự diễn tả rất là chi tiết. Những chi tiết có được là từ ở những cái THỨC do Linh Hồn tạo nên.
Thấy như thế nào, thấy cái gì, màu sắc như thế nào và những chi tiết của việc thấy ra làm sao?
Tất cả những gì có liên quan đến cái thấy thì sẽ giúp cho chữ thấy được mở rộng ra, càng chi tiết hơn.
Nhận biết rằng có một cái mùi bay ngang qua lỗ mũi của mình, nhờ có linh hồn cho cái Tỉ thức mà mình biết được rằng đó là mùi thơm hay mùi hôi, mùi của một loại hoa, một loại cỏ, hay là mùi của một con vật, và cái mùi đó đã tạo nên một cảm giác ra làm sao?
Lần lượt ngũ căn đều nhận được từ ở Linh Hồn những cái THỨC gọi chung là NGŨ THỨC, dự phần vào việc giúp cho ngũ căn cảm nhận mọi sự vật chung quanh mình một cách rõ ràng hơn, chi tiết hơn và tinh tế hơn.
Bên cạnh ngũ căn được sự tăng cường của NGŨ THỨC, còn có những THỨC khác mà tầm quan trọng cũng rất đáng kể, đó là MẠC NA THỨC và A LẠI DA THỨC.
Giữa Ngũ Thức, Mạc Na Thức và A Lại Da Thức có một thức trung gian, đó là Ý THỨC. Sự phân định và thẩm định một cách rõ ràng của những cái Thức của Ngũ Căn đều phải qua Ý Thức.
Đơn cử một thí dụ như sau: một người nhìn thấy một cảnh đẹp, nhờ có Nhãn Thức mà người đó sẽ hiểu được các chi tiết trong cái cảnh mà mình nhìn thấy. Nhưng bên cạnh đó, nhờ có Ý Thức, người đó sẽ thấy rằng khung cảnh này nó nên thơ như thế nào, nó làm cho lòng tôi bồi hồi ra sao, nó làm cho những kỷ niệm xa xưa sống lại với tôi như thế nào? Làm cho tôi nhớ lại những gì đã xảy ra, làm cho tôi liên tưởng đến một hình ảnh khác... Tất cả những gì tôi liên tưởng, tôi nghĩ đến, hay tôi bồi hồi trước một khung cảnh đẹp, đều là do ở tác động của Nhãn Thức tăng cường thêm sự trợ lực của Ý Thức. Và cái Ý Thức quan trọng vô cùng, nó lại liên quan đến cái Tâm và cái Tánh.
Nếu một người có Tâm từ bi, Tâm hỷ xả thì khi đứng trước một cảnh vật hữu tình, tâm người đó rung động, chan chứa những hình ảnh tốt đẹp về những cái gì mà người đó muốn đem ra để ban phát cho chúng sanh. Tâm rung động đó là một tâm rung động tốt. Cái tâm rung động tốt đó sẽ giúp cho cái Ý Thức nảy sinh ra những tư tưởng tốt đẹp là làm sao xoa dịu được nỗi đau của kẻ khác.
Cho nên cái Ý Thức dính liền với cái Tâm rất nhiều và nó cũng dính chặt với cái Tánh. Nếu là một người có bản tánh thích chia sẻ, thích sự dịu dàng, thích ban phát, bố thí, thì trước một khung cảnh hữu tình, người đó sẽ tức cảnh sanh tình xướng lên những vần thơ biểu lộ hết tâm tư của mình, sự chắt chiu, lo lắng của mình đối với những người kém may mắn, kém phước lành hơn mình.
Nhưng nếu cũng trong một khung cảnh đó, cái Ý Thức được khởi lên từ ở một người có một cái Tâm không lành lại cộng thêm một cái Tánh không lành thì mọi chuyện sẽ quay ngược trở lại và sẽ không thể nào có được những lời thơ êm nhẹ, ca ngợi một tình thương yêu đối với chúng sanh.
Vì vậy, tất cả những cái Thức mà mình có được chính là từ ở Linh Hồn.
Nên nhớ rằng: thân xác bị già nua, bị hủy hoại, nhưng Linh Hồn thì không.
Trước khi thân xác chấm dứt sự sống, Linh Hồn vì ở trong thân xác đó, nên đã nhận biết được sự lão hóa, sự hủy hoại từ từ của thân xác, nên đã có sự chuẩn bị, sắp xếp để rời thân xác.
Coi như cái áo này đã cũ rồi, cần phải đi tìm chiếc áo mới khác tốt đẹp hơn. Và khi linh hồn rời khỏi xác thân, tất cả các Thức đều bị hủy diệt.
Tại sao?
Vì những Thức đó là những thức giả tạm, không vĩnh viễn, xem như là phương tiện cho những bộ phận của thể xác mà thôi. Kể cả Mạc Na Thức cũng không được xem là một thức vĩnh viễn. Duy nhất được xem là vĩnh viễn, chính là A Lại Da Thức và thức này đảm nhận công việc của một ngăn chứa.
Chứa cái gì?
Chứa thuần những sự việc quan trọng, không quan trọng thì không chứa!
Việc không quan trọng thì tạm thời chứa trong Mạc Na Thức, khi linh hồn đã rời khỏi thân xác rồi thì Mạc Na Thức cũng bị hủy diệt.
Vì Sao?
Vì tất cả những thứ mà Mạc Na Thức chứa lại cũng là giả tạm, nếu so với cái giả tạm của Lục Thức thì cái giả tạm của Mạc Na Thức có tính cách kéo dài hơn. Để chi? Để chờ đợi, chờ đợi coi có sự chuyển hóa hay không?
Sự chuyển hóa đó từ ở đâu? Chính là ở cái Tâm.
Một người trước kia có một tâm không lành, nhưng sau một thời gian tu tập, nghe Pháp, hiểu Pháp, hành Pháp và nhận xét rằng mình đã làm chuyện sai, cho nên hoán chuyển tâm mình để trở nên tốt đẹp hơn. Khi trở nên tốt đẹp hơn, điều đó là vĩnh viễn, được Mạc Na Thức ghi nhận. Và Mạc Na Thức sẽ giữ đó cho đến ngày người đó lìa đời, nếu tâm người đó vẫn trước sau như một, sau khi đã chuyển hóa rồi mà không có gì thay đổi cả, thì Mạc Na Thức trước khi bị hủy diệt, sẽ chuyển cái sự việc tốt đẹp đó vào trong A Lại Da Thức, xem như là một điểm son cho người đó.
Nếu một người luôn sân hận, có nhiều tánh xấu, thường làm những chuyện sai trái, Mạc Na Thức sẽ tích tụ không sót một điều nào cả. Cho nên cần ghi nhớ: mình có thể che dấu được kẻ khác, chớ không thể nào che dấu chính bản thân mình.
Chính bản thân mình là cái gì?
Chính là cái Mạc Na Thức đó! Một tư tưởng vừa khởi lên, chưa được chuyển đạt thành lời, Mạc Na Thức tức khắc ghi nhận liền. Và nếu không được sửa đổi cho tới ngày nhắm mắt, tất cả mọi thứ sẽ trở thành vĩnh viễn và sẽ được chuyển vào trong A Lại Da Thức có thứ tự lớp lang.
Trước khi linh hồn rời khỏi thân xác, những cái gì thuộc về vĩnh viễn thì Mạc Na Thức chuyển vào trong A Lại Da Thức. Những cái gì có tính cách tạm bợ thì bỏ ra ngoài, không kể tính. Tất cả các thức: Lục thức lẫn Mạc Na Thức đều bị hủy diệt. Linh hồn ra đi chỉ mang theo A Lại Da Thức mà thôi.
Chính cái linh hồn đó, khi còn trong một thân xác sống động thì gọi là NGƯỜI. Nhưng khi người đó không còn hơi thở nữa thì gọi là VONG. Linh hồn vì không còn thân xác nữa để trụ vào, cho nên được gọi một cách đúng nghĩa là Thần Thức.
Danh từ Thần Thức nói lên sự linh hoạt, mầu nhiệm không thể bàn luận cho cùng của Linh Hồn, chớ không phải là vì linh hồn có thần thông quảng đại gì cả.
Cái linh hồn đó mang cái A Lại Da Thức đi theo mình. Nếu trong A Lại Da Thức chứa toàn là điều sân hận, chứa toàn là những điều quấy trá, chứa toàn những điều đau thương, điều đó nói lên cái gì?
Nói lên rằng: người đó khi còn sống đã gieo nhân không lành. Chứa sân hận cũng là gieo Nhân không lành, chứa đau khổ cũng gieo Nhân không lành, chứa những điều quấy trá cũng là gieo Nhân không lành.
Tất cả mọi thứ sẽ theo nghiệp lực mà người đó đã tạo ra và được hành sử theo luật Nhân Quả.
Người đó tạo nghiệp không lành với một kẻ khác, nhưng muốn tạo nghiệp với kẻ khác thì, điều trước tiên là người đó đã gieo nhân không lành với kẻ khác đó, khi vòng nghiệp lực đã đóng lại rồi, thì cốt tủy của vòng nghiệp lực là một sự tác động của Nhân và Quả.
Cho nên tất cả nghiệp lực đều dính chặt vào Nhân và Quả. Thần thức đó bị vướng mắc, chính là vướng mắc ở cái Nhân và Quả.
Giải quyết những vướng mắc của thần thức là giải thích cho thần thức hiểu rằng: tôi đã làm điều không hay, không phải, chẳng qua là vì tôi đã gieo Nhân không lành, bây giờ Quả không lành lại đến với tôi. Vì Quả tôi nhận được không lành cho nên tôi bị vướng mắc, chính vì vậy mà vong không thể siêu thoát được!
Cho nên, siêu độ cho vong là vạch rõ cho vong hiểu rằng: cái A Lại Da Thức mà vong đã mang theo chứa toàn là Nhân xấu, ngày giờ này giúp cho vong có một trí huệ, trí huệ đó ví như một ngọn đèn, giúp vong lựa lọc lại những cái Nhân mà mình đã mang theo.
Điều thú vị là khi đã trở thành một cái vong rồi (mà phải nhớ rằng là vong trong vòng 49 ngày chớ không phải vong sau 49 ngày), thần thức mới nhận chân ra được rằng: từ bấy lâu nay cái túi A Lại Da Thức của tôi đã chứa quá nhiều những hạt lép, hạt không tốt, hạt hư thúi. Ngày giờ này nó làm cho tôi nặng nề, khó khăn cất bước.
Bây giờ tôi phải làm sao?
Chính người chủ lễ phải giúp cho vong có được chút trí huệ để phân định được: hột nào tốt, hột nào xấu. Sau khi lựa lọc lại những cái nhân mà mình đã mang theo thì, với sự giúp đỡ của người chủ lễ, thần thức đó đã nhìn thấy được một sự không cân bằng của cán cân.
Thời gian 49 ngày là thời gian đặc ân, để giúp cho vong làm sao chuyển hóa được những cái nhân không lành của mình, thành ra những cái nhân lành. Và nếu biết tu tập trong 49 ngày thì sự chuyển hóa sẽ dễ dàng, chừng đó, vong sẽ nhẹ nhàng để cất bước.
Đó là lý do vì sao bắt buộc phải dùng nghi thức Sám Hối, để giúp cho vong nhẹ nhàng hơn trong thời gian 49 ngày. Sám hối là một hành động để diễn tả, để nói lên rằng tôi ăn năn, tôi hối hận, tôi tiếc hối vì tôi đã tạo nên những cái nhân không lành.
Vong phải biết rõ vì sao mà mình lại có quá nhiều cái nhân không lành? Và nhờ có sám hối, mà vong mới hoán chuyển được những cái nhân không lành, thành những cái nhân lành. Mà một cái vong ra đi với nhiều cái nhân lành thì đâu có gì là cực nhọc, đâu có gì là nặng nề nữa đâu.
Để phân định được những cái Nhân nào lành, những cái Nhân nào không lành, vong bắt buộc phải có được một chút trí huệ. Có trí huệ như đeo ngọn đèn ở trước trán, đi tới là có ngọn đèn soi sáng rồi, do đó mà biết được đường nào mình sẽ phải đi.
Có một điều rất là lý thú và rất là lợi lạc mà ít ai để ý đến. Siêu độ cho vong, chỉ có 3 con đường để lựa chọn: hoặc về Cõi Người, hoặc về Cõi Trời, hoặc về Cõi Phật.
Không có trường hợp “rơi” xuống Tam Đồ! Dù người đó khi hắt hơi, có những dấu hiệu bị đọa vào Tam Đồ, nhưng trong vòng 49 ngày, nếu thân nhân ra sức giúp cho vong linh tu tập, thì việc hoán chuyển từ Tam Đồ lên Cõi Người sẽ rất là dễ dàng, không khó khăn; nhưng, quá 49 ngày rồi thì người có dấu hiệu bị đọa Tam đồ phải theo đúng Tam Đồ mà đi, nếu không được siêu độ. Vì vậy, 49 ngày là thời gian đặc ân, thời gian để hoán chuyển cảnh giới nếu được siêu độ đúng cách.
Nếu thân nhân không lợi dụng thời gian đặc ân này để làm bất kỳ điều gì cho vong linh hết, thì rất uổng, rất uổng!
Gần như đa số những người thân của vong linh, có lẽ vì tánh lơ là, không để ý, xem việc chết, sống là lẽ thường, cho nên rất ít ai chịu quan tâm đến việc siêu thoát của vong linh. Vong linh có an ổn ra đi chăng? Hay còn lang thang, vất vưởng trong địa ngục đọa đày? Vong linh có đau khổ chăng? Có tìm được một cảnh giới tốt đẹp, hạnh phúc chăng?
Hầu hết chúng sanh nghĩ rằng, chôn xuống một thi hài là xong chuyện! Không bao giờ nghĩ rằng, trong cái thân xác được chôn xuống đó, còn có cái linh hồn. Và chính cái linh hồn đó mới điều khiển được thân xác, nếu không có linh hồn thì không thể điều khiển cái thân xác được. Dù cái thân xác đó có đẹp cách mấy, có tốt cách mấy thì cũng vẫn là một đống thịt mà thôi!
Cho nên, cái linh hồn đó không biến mất khi thân xác đã tan rã, mà linh hồn đó có phận sự đi tìm một thân xác mới. Cái linh hồn đó không bao giờ bị hủy hoại, chỉ có thể bị đọa đày, nhưng không tan biến. Vì vậy mà phải giúp cho cái linh hồn được tốt đẹp, vì cái linh hồn có được tốt đẹp, thì thân xác mang linh hồn đó mới thật sự tốt đẹp được.
Còn nếu như một linh hồn có quá nhiều nặng nề, không tốt, thì cái thân xác sau này ở trên dương thế chứa đựng cái linh hồn quá xấu xí, cũng sẽ trở thành xấu xí.
Phải hiểu rõ được điều đó để thấy rằng, càng làm cho linh hồn tốt đẹp nhiều chừng nào, thì người trên dương thế sẽ được hoán chuyển, sẽ được sửa đổi một cách tốt đẹp.
Cho nên giúp đỡ cho vong linh, là giúp đỡ cho một số đông chúng sanh trong tương lai được tốt đẹp hơn. Một linh hồn biết tu tập, hiểu biết điều phải trái, có trí huệ thì dù tiến vào một thân xác nào, thì thân xác đó cũng khởi sắc, và ảnh hưởng tốt đẹp cho những người chung quanh.
Còn một điều rất thú vị: đó là một sự gạn lọc! Gạn lọc để tất cả những cái gì không tốt đẹp sẽ được để qua một bên và làm cho nó trở nên tốt đẹp. Còn những cái gì đã tốt đẹp rồi thì giúp cho nó càng ngày càng thăng hoa. Tới một lúc nào đó, Cõi Ta Bà sẽ có vô số người tốt đẹp.
Tại Sao Nên Siêu Độ Ở Tại Nhà?
Tại sao thân nhân nên làm việc siêu độ cho vong linh tại nhà trong 49 ngày, mà không ký linh cho chùa chiền?
Thông thường, việc ký linh vào chùa là vì những lý do sau đây:
1. Thân nhân hay sợ hãi, nhất là có rất nhiều người sợ ma, không dám để hình của hương linh ở nhà, vì thấy rằng đi ra đi vào cứ nhìn thấy hình của người mới mất, có cảm tưởng rằng người đó đang phảng phất đâu đây, cho nên cứ sợ hãi. Vì vậy mà đem ký linh thân nhân mình vào chùa cho đỡ sợ.
2. Vì không biết những nguyên tắc, những nghi thức để cúng cho vong trong thời gian 49 ngày.
3. Do sự biếng nhác của thân nhân, vì phải làm công việc đó trong suốt 49 ngày. Đây là sự thật, không thể phủ nhận!
4. Vì những thân nhân của hương linh không tha thiết đến việc tu tập, cho nên cứ đem hương linh giao phó cho chùa chiền, rồi thì chùa chiền muốn làm gì cũng được. Sau 49 ngày là phủi tay xong việc!
5. Thân nhân cho rằng: vì bận bịu với công việc làm ăn hằng ngày nên không có thì giờ để hành trì siêu độ cho người quá vãng.
Đối với người chủ lễ chưa biết tu tập, thì đây là một cơ hội tốt để người này, vừa bày tỏ lòng thương yêu của mình đến người quá cố và cũng là dịp để tập tễnh bước vào đường tu tập. Dù là một sự bắt buộc tu tập, hay là một sự phát nguyện tu tập, đây vẫn là một dịp rất tốt để làm bàn đạp cho việc thăng hoa sau này.
Lúc đầu thì cảm thấy khó chịu, lúng túng, nhưng sau đó không bao lâu, khi suy nghĩ lại, vì tình thương yêu của mình đối với người đã mất, cũng mong mỏi cho người đã mất được ung dung tự tại, được siêu thoát nhẹ nhàng, cho nên, thôi thì bấm gan bấm bụng mà tu! Rồi thì từ từ, mỗi ngày một chút, đến khi thâm nhập lúc nào không hay. Vì vậy mà thời gian 49 ngày, đủ để giúp cho một người, từ một tư tưởng, một cảm giác bị bắt buộc, trở thành ra tự nguyện hay phát nguyện tu tập.
Việc siêu độ cho hương linh ở tại nhà có một điều lợi ích, là sự giúp đỡ cho hương linh được dễ dàng hơn. Trong 49 ngày, hương linh chưa nhận ra được mình đã mất, vẫn còn lẩn quẩn ở trong gia đình, cho nên hương linh không cảm giác nhiều về sự đói lạnh, vẫn còn cảm nhận được không khí gia đình. Vì vậy, người chủ lễ sẽ cảm thấy gần gũi hơn với hương linh, và vì biết rõ được những điều thầm kín, những khúc mắc của hương linh, người chủ lễ sẽ tỉ tê, khuyên giải mỗi ngày. Như vậy giúp cho hương linh bừng sáng rất nhiều.
Số hương linh ký gởi tại chùa quá đông, người chủ lễ ở tại chùa cũng không có nhiều thì giờ để tìm hiểu gốc gác, ngọn ngành của mỗi hương linh. Việc đánh thẳng, đánh mạnh vào trong những khúc mắc của mỗi hương linh, hoặc tỉ tê, khuyên giải từng vong linh mỗi ngày, điều đó vị chủ lễ gần như bó tay, không làm được. Ngoài ra, còn phải kể đến tâm thành, tâm lực, đạo lực của người chủ lễ rất là nhiều.
Nhà chùa lấy dạ Từ Bi đối với Phật Tử, không nỡ chối từ bất cứ một hương linh nào cả.
Tuy nhiên, làm sao có thể so sánh được sự săn sóc của viện dưỡng lão với sự chăm lo, chắt chiu của gia đình, đối với thân nhân già nua hay tàn tật của mình.
Nếu cảm thấy rằng: việc siêu độ cho hương linh đem lại lợi lạc cho kẻ Dương Thế lẫn người cõi Âm thì nên tiến hành việc siêu độ tại nhà, làm giảm bớt đi gánh nặng cho nhà chùa.
Hương linh để tại nhà cũng vẫn tốt hơn, vì ngoài người chủ lễ, còn có thể có những người thân khác; tuy rằng họ không được như người chủ lễ, nhưng cũng đem tấc dạ chân thành của mình ra để cầu nguyện cho hương linh, thì cũng giúp cho hương linh rất nhiều trong vấn đề siêu thoát.
Cho nên, một người nào có thân nhân vừa mới qua đời, nên cố gắng tự mình siêu độ cho vong linh của thân nhân mình, vì đó là cơ hội để giúp cho mình có thể bước vào đường tu tập, hoặc được thăng tiến trên đường đạo, nếu mình đã từng có tu tập rồi, và điều quan trọng là dễ dàng giúp cho thần thức của thân nhân mình hiểu biết và rung động để siêu thoát được.
Việc sợ hãi một người mới mất, đó là vấn đề tâm lý. Thật sự ra mình phải nghĩ rằng: một khi mình mất rồi, những người khác có sợ như vậy hay không? Tại sao mình lại sợ một cái vong? Cái vong không làm gì được cả. Đối với một người vừa mới qua đời, tất cả mọi việc chung quanh họ đều làm cho họ rất bỡ ngỡ.
Khi còn sống, họ nhìn sự vật với đôi mắt của họ, với nhãn thức của họ, tất cả mọi thứ đều đóng khung. Họ không thể nào nhìn cái gì quá cái khung của đôi mắt họ được. Nhưng một khi đã trở nên một cái vong rồi, tầm nhìn của họ không bị đóng khung nữa. Họ có thể nhìn thấu hết tất cả mọi vật. Ngay cả những thân nhân của họ, tâm tánh như thế nào, họ đều nhìn thấu rõ, nhưng bảo rằng, những vong này có thể làm hại bất kỳ ai thì việc đó không có. Vong mới vừa mất chưa đủ sức để làm việc đó đâu! Như vậy đâu có gì để phải sợ hãi cái vong?
Tại sao lại có sự phân biệt giữa người đã mất với người còn sống? Sự sợ hãi có được là do người còn sống tự đặt một ranh giới, giữa người đã mất và người chưa mất. Giả sử rằng, người đã mất này hiện đang ở cùng một khu phố với mình, mà mình không biết được rằng người này đã mất, thì liệu rằng mình có sợ hãi hay không? Cho nên, tất cả đều là do người sống đặt ranh giới để tạo sự sợ hãi.
Phải hiểu rằng: Sanh – Lão – Bệnh – Tử, có sanh thì có tử, người đi trước, kẻ đi sau, không ai thoát được vòng lẩn quẩn đó, vì vậy mà nên từ bỏ tư tưởng sống chết. Hãy xem đó là một điều đương nhiên phải chấp nhận! Có sanh ra thì phải có chết, để không cảm thấy rằng, có một sự khác biệt ở trong đó.
Trong phần nghi thức siêu độ, mỗi ngày, trước khi hành lễ, người chủ lễ phải trì Chơn Ngôn Phát Hào Quang. Câu Chú này giúp cho trong nhà rất thanh tịnh, không có gì phải sợ hãi cả.
Kế tiếp là phải tự hỏi rằng, mình có thật lòng chan chứa tình cảm với người đã mất hay không? Có xem người đó giống như thuở người đó còn sống hay không? Có một tình thương dạt dào với người đó hay không? Khi người đó còn sống thì mình làm thế nào để giúp cho người đó được vui vẻ, được cảm thấy hạnh phúc? Bây giờ người đó không còn hiện diện nữa, phải làm cái gì để giúp cho người đó được tốt đẹp, được thăng hoa? Khi còn sống thì người đó hưởng hạnh phúc, nhưng khi người đó đã mất rồi thì người đó phải được thăng hoa.
Khi mình đặt những câu hỏi đó, thì mình sẽ có câu trả lời là, “tôi phải làm một cái gì!” Và chính câu trả lời, tôi phải làm cái gì để giúp cho thân nhân của tôi được thăng hoa, sẽ giúp cho tôi tìm tòi tất cả những phương cách, phương tiện để giúp đỡ cho thân nhân.
Khi đã hiểu được chuyện đó rồi thì dễ dàng bước vào việc tu tập. Việc tu tập, bước ban đầu là vì thân nhân, cho thân nhân, tất cả giúp cho thân nhân; nhưng chắc chắn rằng, sau 49 ngày, người chủ lễ sẽ có một cảm giác rằng, chính thân nhân quá cố đó đã giúp cho tôi bước vào đường tu tập lúc nào không hay. Cho nên có lợi cho cả đôi bên, một khi vẫn có lợi cho cả đôi bên thì tại sao không thực hành? Tại sao còn phải đắn đo?

Chuẩn Bị Cho Người Chủ Lễ

Chuẩn bị cho người chủ lễ là một việc vô cùng quan trọng, nếu không chuẩn bị một cách kỹ càng, chu đáo, sẽ khó lòng thuyết phục được vong.
Người chủ lễ có thể là một người biết tu tập, tuy nhiên, một người chưa từng làm quen với việc tu tập, cũng vẫn đảm nhận được việc siêu độ một cách dễ dàng, tốt đẹp. 
Người Chủ Lễ Biết Tu Tập
Tu tập nơi đây phải được hiểu là Tu Tập chân chính, có nghĩa là:
Luôn luôn kiểm soát TÂM - Ý - TÁNH của mình.
Thấu triệt những nguyên tắc căn bản của việc tu tập: Giữ Tâm bình, Giữ Ý không phát khởi, sửa Tánh xấu thành Tánh tốt.
Thời khóa tu tập hằng ngày lúc nào cũng phải bao gồm Sám Hối, Trì Chú, Niệm Phật.
Đọc Pháp, Hiểu Pháp, Tư Duy Pháp và áp dụng Pháp vào cuộc sống Đời lẫn Đạo.
Giữ cho mình một TƯ CÁCH đúng nghĩa của người tu tập.
Một sự tu tập chân chính sẽ mang đến cho hành giả một ánh hào quang bao bọc chung quanh người.
Ánh hào quang này dày hay mỏng, màu sắc thay đổi tùy theo cường độ tu tập cao hay thấp của hành giả.
Người tu tập chân chính lâu năm, hào quang phải phát sáng. Nếu hào quang không phát sáng thì có nghĩa là đường tu tập không đúng lối.
Công năng tu tập qua nhiều ngày tháng sẽ mang đến cho hành giả một Đạo Lực, do ở việc Trì Chú – Niệm Phật.
Nếu một người chủ lễ vừa có được ánh hào quang sáng rực, vừa có được Đạo Lực mạnh mẽ, sẽ tạo nên một uy lực, khiến cho vong nhìn vào sẽ tỏ lòng kính phục và dễ dàng nghe theo lời khuyên bảo của chủ lễ.
Người Chủ Lễ Chưa Biết Tu Tập

Người chưa tu tập bao giờ, nhưng nếu muốn siêu độ cho một vong linh thì họ bắt buộc phải có một Tâm Lực rất… rất cao.
TÂM LỰC là một sức mạnh xuất phát từ TÂM, được kết hợp bởi TỨ VÔ LƯỢNG TÂM. Phải là một người có lòng TỪ - BI - HỶ - XẢ thì mới có thể tạo được một Tâm Lực vững chắc.
Một người chưa biết gì về việc tu tập, nhưng với tất cả tấm lòng, tất cả sự thương yêu trìu mến, sự mong mỏi, sự tha thiết của mình đối với một vong linh, tất cả sự nồng nàn đó góp tạo lại thành một sức mạnh to lớn mang tên là Tâm Lực. Tâm Lực cũng vẫn phát ra được ánh hào quang, nhưng nếu so với ĐẠO LỰC thì yếu hơn nhiều và không được rực rỡ lắm.
Để giúp cho việc Siêu Độ vong linh mang lại một kết quả thật viên mãn, LacPhap.com xin hân hạnh trao tặng cho người hữu duyên một câu Thần Chú.
Nếu là người vừa có ĐẠO LỰC vừa có TÂM LỰC, khi trì câu Chú này, hào quang sẽ rực sáng như vòng lửa bao bọc chung quanh mình.
Nếu một người chỉ có thuần Tâm Lực, câu Chú này sẽ làm cho hào quang của người đó được sáng rực lên (chỉ trong thời gian hành lễ mà thôi).
Nếu muốn được hào quang một cách vĩnh viễn, đúng nghĩa, thì bắt buộc phải thường xuyên tu tập. Câu Chú đó là:
CA SA THA PHA
(Khi trì Chú, hai tay bắt Ấn: Kiết Tường Kim Cang)
Bắt đầu: tay bắt Ấn Kiết Tường Kế tiếp: xếp 3 ngón xuống trở
thành Ấn Kiết Tường Kim Cang
   
GHI NHỚ
Người trì câu Chú này, dù rằng chưa biết tu tập, cũng vẫn phải là một người chân chính.
Người theo tà đạo hoặc người có Tâm Không Lành, trì câu Chú này sẽ không mang lại kết quả tốt đẹp. Tâm Lực là một sự kết hợp của Tứ Vô Lượng Tâm xuất phát từ Tâm mà ra, người theo tà đạo hoặc tâm không chân chính thì không thể có một Tâm Lực dũng mãnh được.
Suốt trong thời gian 49 ngày siêu độ cho vong linh, chủ lễ có Đạo Lực nên trì thường xuyên câu Chú này (ngoài thời gian hành lễ) để cho hào quang của mình luôn rực sáng.
Người chủ lễ chỉ có Tâm Lực mà thôi, càng cần phải trì câu Chú này thật nhiều, để chắc chắn rằng hào quang của mình luôn phát sáng và khuyên bảo vong sẽ dễ dàng nghe theo.
Siêu độ cho một vong linh cần cái gì? Cần tấm lòng chân thật, cần người chủ lễ siêu độ phải là một người tu tập chân chính, người xuất gia trong cửa Đạo cũng tốt, mà người tại gia ngoài cửa Đạo thì cũng không có gì đáng nói, nơi đâu cũng được, miễn là một người hết dạ chân thành, dốc lòng tu tập và biết nghĩ đến chúng sanh. Nếu là người trong cửa Đạo đảm nhận việc siêu độ, thì người trong cửa Đạo phải xem hết tất cả chúng sanh đều là thân bằng quyến thuộc của mình, để mới có thể đem hết tấm lòng mà siêu độ, hộ niệm cho vong linh bằng Đạo Lực và bằng chính Tâm lực của mình.
Còn người ngoài cửa Đạo cũng vẫn phải đem Đạo Lực của mình (nếu có) kèm theo với Tâm Lực rất mạnh của mình để mà siêu độ cho người thân của mình hoặc là một người mà mình thương mến, mình lo lắng, mình chăm sóc khi họ còn tại thế. Cho nên, dù trong cửa Đạo hay ngoài cửa Đạo, việc siêu độ không phân biệt bất kỳ ai.
Nếu chủ lễ là con Trưởng trong gia đình, hay là Trưởng Tộc trong dòng họ, hoặc bất cứ người nào thuộc về thân nhân của người quá cố, thậm chí là bằng hữu, quen biết, cũng đều được cả. Điều quan trọng chính là sự chân thành của người chủ lễ. Nếu người chủ lễ đảm nhận việc siêu độ nhưng không đem hết dạ chân thành của mình, sự mong mỏi của mình để giúp cho vong linh được siêu thoát, thì việc đó sẽ không mang đến một kết quả nào cả, dù trong cửa Đạo hay ngoài cửa Đạo cũng vậy thôi!
Cho nên phải nhớ kỹ một điều là, Đạo Lực cộng với Tâm Lực mới có thể giúp được cho vong linh siêu thoát. Có Đạo Lực mà không có Tâm Lực thì không thể nào làm việc có kết quả được; nhưng nếu chỉ có một Tâm Lực thôi, nhưng một Tâm Lực rất cao thì kết quả tốt đẹp vẫn có thể đạt được như thường.

Những Điều Kiện Cho Người Chủ Lễ
Người chủ lễ phải đạt một vài điều kiện sau đây để cho tư cách của mình gia tăng lên, như vậy thì việc mình hướng dẫn một vong linh mới đến nơi đến chốn, không mất thì giờ và tạo nên được công đức.
1. Phải Trường Chay Trong 49 Ngày:
Khi người chủ lễ tại gia đứng ra siêu độ cho một vong linh, người đó bắt buộc phải Trường Chay trong suốt thời gian làm lễ (49 ngày). Phải chịu khó dùng những thức ăn thanh, đừng dùng những thức ăn nặng, vì những thức ăn thanh dễ dàng giúp cho ánh hào quang của câu Chú được phát sáng và lời niệm Phật được phát sáng. Nếu không trường chay thì rất khó lòng nói để cho vong nghe lắm. Người đời không nhìn thấy được những gì xa hơn tầm mắt của họ, cho nên không nhận ra được sự thán phục của vong, hay sự hờ hững của vong đối với người chủ lễ. Vì vậy, người chủ lễ muốn nói cho vong nghe thì phải có đủ tư cách. Trên dương thế, một người muốn cho kẻ khác nghe mình, theo mình, làm theo những gì mình muốn, đều bắt buộc phải có tư cách và phải có uy, thì mới có thể lôi kéo được kẻ khác theo mình.
2. Thọ Trì Tam Quy và Giữ Ngũ Giới:
Người trong cửa Đạo (xuất gia) thì đương nhiên là đã thọ trì Tam Quy và giữ Ngũ Giới (giữ còn nhiều hơn 5 giới nữa). Tuy nhiên, nếu người trong cửa Đạo làm những chuyện sái quấy, phạm giới thì khó lòng siêu độ cho vong linh vì người đó thiếu cái uy nghiêm khiến cho vong không nghe theo lời khuyên bảo.
Người tại gia, tu tập chân chính, việc thọ Tam Quy, trì ngũ giới là việc đương nhiên.
Người chưa từng tu tập, làm chủ lễ với tất cả Tâm Lực của mình, trong thời gian 49 ngày phải phát nguyện thọ trì Tam Quy và giữ ngũ giới, để cho người đó được nhẹ nhàng, không tạo cơ hội cho một nghiệp chướng xảy ra. Chính bản thân người đó đã mang nghiệp chướng rồi, bây giờ trong suốt 49 ngày, lại mang thêm hết nghiệp chướng này đến nghiệp chướng khác, như vậy rất là nặng trĩu. Tự bản thân của họ đã đeo đá nặng rồi, thì khó lòng có thể khuyên bảo ai được nữa, cho nên tối thiểu cũng phải làm “NHẸ” người của mình trong suốt 49 ngày, để cho hào quang được phát sáng. Dù rằng hào quang đó tạm thời phát sáng trong thời gian mình dẫn dắt vong, cũng vẫn phải làm cho người mình được nhẹ nhàng. Nếu người mình không nhẹ nhàng, thì hào quang từ câu Chú CA SA THA PHA cũng vẫn không thể giúp cho mình phát sáng hào quang được đâu.
Sau thời gian siêu độ, nếu người đó muốn tiếp tục giữ Tam Quy Ngũ Giới thì rất tốt, còn không muốn tiếp tục thì cũng không sao.
Tuy nhiên nếu người đó vẫn tiếp tục tu tập, và trong quá trình tu tập, họ hồi hướng cho bản thân họ được thân tâm chánh niệm, cho oan gia của họ, cho nghiệp chướng của họ được tiêu trừ để giải những món nợ đối với oan gia của họ, rồi họ cũng hồi hướng cho thân nhân đã quá cố mà họ đã giúp cho siêu độ, như vậy là một chuyện quá sức tốt! Có thể nói rằng: chính nhờ vào vong linh đó, mà người chủ lễ có cơ hội bước vào đường tu tập.
Nghi Thức Thọ Tam Quy và Giữ Ngũ Giới Cho Người Chưa Biết Tu Tập
Người chưa hề thọ Tam Quy, trì Ngũ Giới, nếu làm chủ lễ siêu độ cho vong linh thì phải theo nghi thức sau đây:
Trong buổi lễ đầu tiên, trước khi bắt tay hành lễ, người chủ lễ thắp hương đứng trước bàn thờ Phật, khấn nguyện như sau:

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. o (1 lạy)
Con tên là ____, ngày hôm nay con xin đem hết Tâm Lực của mình để làm chủ lễ siêu độ cho thân nhân của con vừa mới qua đời, hương linh tên là ____, Pháp danh ____, sanh ngày____, mất ngày____.
Cúi xin chư Phật và Bồ Tát chứng minh cho con:
Thành tâm Quy Y Phật o (1 lạy)
Thành tâm Quy Y Pháp o (1 lạy)
Thành tâm Quy Y Tăng o (1 lạy)
Con cũng xin phát nguyện giữ Ngũ Giới:
Con nguyện Không Sát Sanh
Con nguyện Không Trộm Cắp
Con nguyện Không Tà Dâm
Con nguyện Không Nói Láo
Con nguyện Không Uống Rượu
Và con nguyện trường chay trong suốt 49 ngày hành trì lễ siêu độ. Con cầu xin thân tâm nhẹ nhàng, thơ thới, có đủ uy lực để dẫn dắt, hướng dẫn cho vong linh thoát được những vướng mắc, tìm được đúng hướng đi của mình để thác sanh.
Nam mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát, tác đại chứng minh. o (1 lạy)

Trong suốt 49 ngày, trước khi bắt đầu hành lễ, người chủ lễ này đều phải luôn luôn khấn nguyện:
Con tên là ____ ngày hôm nay con vì hương linh, phát nguyện thọ Tam Quy, trì Ngũ Giới, giữ trường chay, tu tập, giữ cho thân tâm luôn được thanh tịnh.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát. o (1 lạy)
Sau đó thì trì câu Chú CA SA THA PHA trong 15 phút trước khi bắt đầu hành lễ. Nên giữ tâm thanh tịnh lúc trì Chú, có nghĩa là tránh Tâm Viên Ý Mã, quán tưởng hào quang rực sáng chung quanh mình.

Làm Một Thiện Tri Thức Cho Vong Linh
Trên dương thế, người Thiện tri thức là người giúp đỡ, dẫn dắt cho một chúng sanh từ đường tối bước ra đường sáng, từ vũng bùn lầy bước ra chỗ đất khô ráo. Vai trò của người Thiện tri thức là dẫn dắt một chúng sanh từ thấp tiến lên cao. Công việc đó bao gồm rất nhiều điều mà một người Thiện tri thức phải chu toàn trong khi hành sử vai trò của mình. Đưa một chúng sanh từ bờ Mê ra bến Giác không phải là một việc búng tay, cũng không phải là một việc chỉ “một ngày một bữa.” Đó là một công việc có khi kéo dài cả hàng tháng, hàng năm hay nhiều năm. Cho nên người Thiện tri thức phải đặt rất nhiều chữ NHẪN ở trong công việc của mình.
Chữ Nhẫn là một đức tánh vô cùng quan trọng trong đường Đời lẫn đường Đạo. Đường Đời thiếu chữ Nhẫn, không thể có sự thành công được. Đường Đạo thiếu chữ Nhẫn, thì không thể nào tiến đến Bờ Giác được. Cho nên, người thiện tri thức hành sử vai trò của mình rất là cực nhọc. Đó là nói về chúng sanh còn trên dương thế.
Đối với một chúng sanh mà chỉ còn là một thần thức thôi, thì sự Nhẫn Nại của người chủ lễ sẽ nhiều gấp bội phần. Có đôi lúc, thần thức đó, vong linh đó, không hiểu gì hết, cần phải cắt nghĩa, cần phải chỉ dẫn từng bước một. Do đó, phải nhẫn nại rất nhiều.
Điều quan trọng là, phải tìm hiểu về vong linh đó, trước khi đảm nhiệm việc siêu độ cho vong linh. Nếu không biết gì về vong linh, thì sẽ khó lòng dẫn dắt cho vong linh đi đúng đường được. Phải nghĩ rằng: nếu một người đang khát nước mà cứ cho họ ăn, thì họ sẽ không thể nào tiếp tục ăn được, hay ngược lại, nếu một kẻ đang muốn ăn mà không cho ăn, cứ cho uống nước đầy bụng thì phải tới lúc người đó ói ra nước. Cho nên, đối với vong linh cũng thế, phải tìm hiểu rất là cặn kẽ những uẩn khúc của vong linh, tánh tình của vong linh, vì tất cả những nghiệp chướng mà vong linh đã tạo ra, đều liên quan mật thiết với cái Tánh của vong linh khi còn sống. Vì vậy, nếu không hiểu rõ vấn đề đó, thì rất khó lòng giúp cho vong linh thoát được nghiệp chướng của mình.
Nếu một vong linh đã trả xong nghiệp chướng của mình, đã giải tỏa hết tất cả những điều uẩn khúc của mình, thì vong linh không cần người siêu độ nữa, họ đã tự động ra đi rồi.
Khi vong linh vẫn còn vương vấn những uẩn khúc trong lòng, nghiệp chướng bề bề chưa phân giải được, thì bắt buộc người chủ lễ phải hiểu rõ để giúp cho vong linh giải trừ những khúc mắc. Vì vậy, vai trò của người chủ lễ không phải đơn giản đâu! Cần phải nghiên cứu rất nhiều trước khi ngồi xuống cùng với vong linh hành lễ.
Làm sao biết được vong linh nào đã siêu thoát ra đi và vong linh nào chưa siêu thoát?
Nếu người chủ lễ không có mặt vào giờ phút lâm chung của người quá cố, thì cần phải hỏi thân nhân của người này để biết tướng trạng trên gương mặt của người đã qua đời như thế nào.
Nếu người này ra đi với bộ mặt rất là thanh thoát, thoải mái, hơi ấm cuối cùng tụ vào từ ngực trở lên thì việc siêu độ cho người đó không cần phải tốn quá nhiều công sức.
Còn nếu người đó có những ác tướng hiện lên nơi mặt, có nghĩa là người này đã bị vướng mắc rất là nhiều, không siêu thoát được.[1] Như vậy, phải nghiên cứu những khúc mắc của người này để giúp cho họ có thể thoát được Tam Đồ mà đi về đến cõi Người.
Việc nghiên cứu một người chưa siêu thoát không khác gì công việc của một Bác Sĩ. Muốn trị bịnh cho bịnh nhân, cần phải lập hồ sơ Bịnh Án của từng bịnh nhân. Vị Bác Sĩ phải hiểu rõ bịnh nhân này có căn bịnh gì? Nguồn gốc căn bịnh xuất phát từ đâu? Việc trị bịnh gồm phương cách gì? Dùng các loại thuốc nào? v.v…
Người chủ lễ phải tìm hiểu thật cặn kẽ những lý do của từng ác tướng hiện trên nét mặt của người quá cố.
Hiểu được rõ ràng căn nguyên, cội rễ mới có thể giải thích, khuyên bảo để cho vong linh xả bỏ những ẩn ức, những đau buồn, sân hận v.v…
Nếu một người đã qua đời được 1, 2 tiếng đồng hồ rồi, thân xác bắt đầu lạnh dần, khi sờ vào cảm nhận được hơi ấm cuối cùng tụ vào hoặc trán, hoặc đỉnh đầu, có nghĩa rằng người đó đã được tiếp rước hoặc về cõi Trời (hơi ấm cuối cùng tụ ở trán), hoặc về cõi Phật (hơi ấm cuối cùng tụ ở đỉnh đầu). Việc siêu độ sẽ không cần thiết.
Hơi ấm tụ vào từ ngực trở xuống cần phải siêu độ. Dù rằng ở nơi ngực, tức là trở lại cảnh giới Người, nhưng vẫn bị chi phối trong hạn 49 ngày. Thời gian 49 ngày là thời gian đặc ân; nếu người đó được trở về cảnh giới Người, nhưng trong suốt 49 ngày, nếu người chủ lễ giúp cho họ biết ăn năn sám hối thêm, biết niệm Phật, nói tóm lại, là biết tu tập, biết xả bỏ hết tất cả những vướng mắc, thì có thể hoán chuyển từ cảnh giới Người lên đến cảnh giới Trời hay cảnh giới Phật, tùy ở sức giúp của người chủ lễ và tùy ở độ tiếp nhận của vong linh.
Nếu tới ngày thứ 49 mà thần thức có một sự tiến bộ vượt bực, và theo ước muốn của thần thức (chớ không phải ước muốn của người chủ lễ), thần thức sẽ được tiếp dẫn lên cõi Trời hay cõi Phật. Nếu không đủ duyên lành để lên cõi Trời hay cõi Phật, thần thức sẽ được trở lại làm Người, ở một hoàn cảnh khá hơn, ở một đẳng cấp cao hơn.
Người chủ lễ tu tập chân chính sẽ có được một cảm giác và cảm giác đó sẽ rất là tinh tế. Vì vậy, khi làm chủ lễ phải rất là ĐỊNH để có thể lắng nghe hoặc là giao cảm được với vong linh. Điều này rất khó, không phải dễ, tuy nhiên đoạn đường mình cất bước, dù rằng đầy chông gai, hầm hố, không có nghĩa rằng mình không có cách để khắc phục nó mà tiến lên.
Giúp đỡ một chúng sanh còn trên dương thế, đưa họ từ đường tối bước ra đường sáng, đã là một việc vô cùng phức tạp và đòi hỏi nhiều nhẫn nại, nhiều tế nhị. Vong linh cũng là một chúng sanh, nhưng không còn có mặt ở Cõi Đời nữa. Họ tạm thời vắng mặt, để sửa soạn khoác lên người một chiếc áo mới.
Người chủ lễ có bổn phận phải giúp cho vong linh lựa chọn một chiếc áo vừa vặn, tốt đẹp, để đến khi vong linh sẵn sàng bước vào cuộc đời mới, Chiếc Áo Mới này sẽ giúp cho vong linh gây tạo một sự chú ý đáng kể.
Dù đã bước vào đường tu tập, hay chưa bước vào đường tu tập, cũng nên thực tập chữ Bình, để đến khi có việc cần đem ra sử dụng, sẽ đem đến một kết quả liền tức khắc. Nếu đợi đến phút cuối thì khó lòng giữ được Tâm Bình.
Hãy ghi nhớ một điều quan trọng là: nhận lời làm chủ lễ siêu độ cho một vong linh, cần phải hiểu thật rõ ràng “bệnh án của bệnh nhân”.
Nếu nhận lời mà không biết gì về nguồn gốc, ngọn ngành của vong linh, sẽ khó lòng mang đến một kết quả tốt đẹp được.
Việc siêu độ cho một vong linh, trên nguyên tắc phải liên tục trong 49 ngày, vì đó là “thời gian đặc ân.” Vong linh rất cần được nghe Pháp; vong bị vướng mắc, không siêu thoát được, cũng chỉ vì chưa giải tỏa được điều uẩn khúc trong lòng trước khi nhắm mắt lìa đời. Cũng có khi vì một sự hiểu sai, hiểu lầm, hiểu chưa thấu đáo mà vong vô tình bị vướng vào một nghiệp chướng.
Nhờ sự giúp đỡ của chủ lễ trong việc giải thích, giảng dạy, chỉ dẫn để vong nhận ra điều sai trái, vong tỉnh ngộ, và nhẹ nhàng cất bước.
Trong việc siêu độ, điều cần thiết và chánh yếu không phải là vật thực (thức ăn) mà chính là Pháp¬¬ Thực. Vong linh cần phải được nghe Pháp, được nói đi nói lại rất nhiều lần, gần như là tỉ tê, để cho vong có thể tiếp nhận được.
Vong linh và người còn sống khác biệt nhau ở chỗ nào?
Người còn sống khi nói lên một điều gì là họ tiếp nhận ngay, chỉ trừ khi họ bướng bỉnh thì họ từ chối không nghe.
Còn vong linh phải lặp đi, lặp lại nhiều lần vì họ không còn ngũ căn, do đó, một khi họ đã cảm nhận được rồi thì thần thức tức khắc rung động, mọi việc được chuyển hóa ngay tức khắc. Cho nên cần phải có sự kiên trì, nhẫn nại để tỉ tê nói cho thần thức nghe.
[1] Ác tướng: diễn tả vẻ mặt không thoải mái của một người khi hắt hơi cuối cùng. Vẻ mặt đó có thể là: sợ sệt, nuối tiếc, lo âu, đau khổ, đau đớn, buồn bả, sân hận, v.v...
Sau Lễ An Táng
Thời gian 49 ngày có thể chia ra làm 7 thất (tức là 7 tuần). Ngày tử được kể là ngày thứ nhất, từ đó tính đến 49 ngày – và phân ra làm 7 tuần.
Sau lễ an táng, vong có thể được:
1. Đưa về chùa
2. Hoặc đưa về nhà
Đưa Vong Về Chùa
Thông thường, nhà chùa chỉ nhận lời siêu độ cho vong trong 7 thất, tức là mỗi tuần, nhà chùa sẽ có lễ cầu siêu cho vong một lần. Lễ siêu độ sẽ hoàn tất ở tuần thứ 7 (tổng cộng có 7 lần hành lễ siêu độ cho vong ở chùa). Nếu đã đưa vong về chùa rồi, mà thân nhân vẫn muốn hành trì lễ siêu độ cho vong ở tại nhà, thì sẽ theo cách thức như sau:
Lập bàn thờ vong ở tại nhà
Chỉ để hình của vong hay bài vị trên bàn thờ vong - không làm nghi thức cho vong nhập vị (vì vong đã nhập vị ở chùa rồi)
Cũng không thỉnh hai vị Hộ Pháp để bảo vệ cho vong
Vị chủ lễ vẫn hành trì nghi thức siêu độ mỗi ngày gồm sám hối, trì Chú, niệm Phật và giảng Pháp. Không cần cúng cơm mỗi ngày vì nhà chùa đã lo phần này rồi. Mỗi tuần một lần cúng cơm (ở chùa).
Quan trọng là: Khi hành lễ, vị chủ lễ phải thành tâm quán tưởng (tưởng tượng hình ảnh của vong) vong đang ở trước mặt, cùng với mình hành lễ. Không có phần triệu thỉnh vong. Việc giảng Pháp cũng như thế, phải quán tưởng vong đang mặt đối mặt với người chủ lễ để nghe Pháp.
Dù rằng vong đang ở chùa, vẫn cảm nhận được hết những gì mà người chủ lễ thành tâm siêu độ cho vong.
Khi vong linh sám hối người chủ lễ phải nói rằng:
“Vong linh tên _____, Pháp danh ____, mất ngày ____, đang ở tại Chùa(tên và địa chỉ) ____, hãy cùng với chủ lễ hành trì nghi thức sám hối.”
Đến giai đoạn trì Chú hay niệm Phật, chủ lễ cũng phải xướng lên như vậy:
“Vong linh đang ở tại chùa (tên và địa chỉ) ____ hãy cùng với chủ lễ trìChú (hay niệm Phật).”
Sau mỗi khóa lễ, chủ lễ phải khấn với Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát rằng:
“Vong linh tên ____, mất ngày _____, đang ở tại chùa (tên và địa chỉ)_____. Cầu xin Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giúp đỡ để cho vong linh ở tại chùa ____ được tu tập.”
Có lời khấn với Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, Ngài sẽ đặc biệt theo dõi vong linh đó, để xem vong linh đó tu tập như thế nào. Chỉ có Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát mới có thể thẩm định được sự tu tập, sự tiến triển của vong linh mà thôi, để rồi cuối cùng mới có thể quyết định được vong linh sẽ thác sinh về đâu.
Ngày thứ 49, trong lúc chùa hành lễ, người chủ lễ cũng hành lễ ở tại nhà vào giờ giấc đó. Sau khi chấm dứt khóa lễ, chủ lễ cũng sẽ khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, nhờ Ngài thẩm định xem việc tu tập của vong linh ở tại chùa như thế nào, và nhờ Ngài sắp xếp giùm để tiễn vong linh đi, theo đúng cảnh giới của vong linh.
Điều này đòi hỏi người chủ lễ phải luôn luôn giữ trạng thái Bình và phải nghĩ tưởng đến vong linh rất rõ ràng trong lúc khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát. Người chủ lễ sẽ phải đem hết sức lực của mình để giúp đỡ cho vong linh ở tại chùa, phải có một sự giao cảm giữa vong linh và người chủ lễ, thì người chủ lễ mới có thể giúp được cho vong linh ở tại chùa.
Do đó, nếu đã có ý muốn siêu độ cho thân nhân, thì nên đưa vong về nhà, mọi việc sẽ ở trong tầm tay của mình, sự giao cảm cũng sẽ dễ dàng hơn.
Đưa Vong Về Nhà
Cách thức sẽ như sau:
1. Lập bàn thờ vong
2. Thỉnh vong về nhà
3. Thỉnh Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giúp cho vong nhập vị
4. Thỉnh hai vị Hộ Pháp để bảo vệ vong
5. Hành trì nghi thức siêu độ mỗi ngày cùng với vong, liên tục trong 49 ngày. Cúng cơm mỗi ngày. Nếu gia chủ quá bận rộn thì cúng cơm mỗi tuần.
6. Sau phần nghi thức siêu độ là phần giảng Pháp
7. Ngày thứ 49, sau phần nghi thức siêu độ, thỉnh Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát để tiễn vong.
8. Sau đó tiễn hai vị Hộ Pháp
9. Việc siêu độ cho vong đã hoàn tất.
Hai vị Hộ Pháp này không phải là Hộ Pháp Già Lam đâu. Hộ Pháp Già Lam là Hộ Pháp ở trong chùa để bảo vệ kinh sách. Hai vị Hộ Pháp nơi đây, do sự yêu cầu của chủ lễ nên có mặt để bảo vệ cho vong. Vì vong hoàn toàn mới với Cõi Âm, cho nên, để tránh những việc đáng tiếc xảy ra có hại cho vong linh, mới có việc hai vị Hộ Pháp đi theo để bảo vệ cho vong linh. Hai vị này đóng vai trò tương tự như hai vị cảnh sát của cõi dương vậy. Hai vị này bảo vệ cho vong tránh gặp kẻ xấu. Kẻ xấu đó chính là những vong linh ở tại Cõi Âm từ rất lâu, không siêu thoát được. Người mới mất, vong linh còn yếu, do đó dễ bị kẻ xấu ăn hiếp, vì vậy, có hai vị Hộ Pháp, do theo lời yêu cầu của chủ lễ, bảo vệ cho vong trong thời gian 49 ngày. Sau 49 ngày, vong linh về đúng cảnh giới của mình rồi, hai vị Hộ Pháp cũng chấm dứt nhiệm vụ bảo vệ cho vong linh.
Tâm Trạng Của Người Chủ Lễ Ảnh Hưởng Đến Vong Linh
Trong suốt 49 ngày, muốn cho việc siêu độ mang lại kết quả tốt đẹp thật sự, người chủ lễ phải giữ Tâm Bình, tránh phiền não hay lo lắng, sân hận, tránh tất cả những gì có liên quan đến Tâm – Ý – Tánh. Như vậy mới có thể giữ cho hào quang của người chủ lễ không bị phai mờ; hào quang không phai mờ thì vong mới kính phục được, mới nghe theo lời của chủ lễ chỉ dạy.
Khi đảm nhận trách nhiệm giúp siêu độ cho vong linh, người chủ lễtuyệt đối không được buồn rầu thương nhớ, vật vã khóc than sự ly biệt với người thân của mình.
Đã là người biết tu tập thì phải hiểu rằng, tất cả những tình cảm đó đều là KHÔNG. Cho nên, tự họ phải biết buông bỏ những đau khổ khi bị mất mát. Những sự đau thương, chia lìa, những tình cảm ủy mị, khóc thương, người tu tập chân chính phải biết tiết giảm, phải nhận chân ra được một cách đương nhiên là, có sanh thì có tử, có hợp thì có tan, có gặp gỡ thì có chia xa, cho nên không có gì để phải đau buồn, khóc hận.
Nếu đứng ra siêu độ cho một vong linh mà ngập tràn nước mắt, làm sao giữ được Tâm Bình? Không giữ được tâm bình, sẽ không giữ được sự rực sáng của ánh hào quang, mà hào quang không rực sáng, sẽ khó lòng dẫn dắt vong đi đúng đường được. Phải ghi nhớ các câu hỏi vô cùng quan trọng sau đây:
Mình làm sao để tỏ lòng thương yêu của mình đến thân nhân quá cố?
Phải giúp cho họ được thăng hoa.
Muốn cho họ được thăng hoa, mình phải làm như thế nào?
Phải kiên trì và hành sử cho thật đúng việc siêu độ.
Thần thức của thân nhân mình có rung động được thì việc siêu thoát, việc thăng hoa mới có thể có kết quả tốt đẹp được.
Thương yêu thân nhân, tưởng nhớ đến thân nhân không phải bằng nước mắt, bằng sự vật vã, khóc than, kêu gào. Tất cả những hành động đó không đem lại điều lợi ích, mà trái lại, đẩy mình và thân nhân của mình càng đi ngược chiều, không tiến gần lại được để mà cứu giúp.
Chuẩn Bị Cho Hương Linh
Lập Bàn Thờ Phật

Tại sao có việc lập bàn thờ? Chẳng qua là vì giúp cho chúng sanh dễ dàng quán tưởng. Nếu chúng sanh nào có thể quán tưởng dễ dàng, thì cũng không cần phải lập một bàn thờ.
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã giới thiệu đến chúng sanh của cõi Ta Bà về Đức A Di Đà Phật, vị giáo chủ của cõi Tây Phương Cực Lạc. Vị Phật này đã có lời thệ nguyện, là sẽ tiếp độ chúng sanh của cõi Ta Bà, nếu chúng sanh đó thật tâm muốn về cõi Cực Lạc của Ngài.
Chúng sanh nơi cõi Ta Bà đã ví Ngài như một Từ Phụ và cảm thấy rất gần gũi với Ngài. Người đời đã họa hình của Đức A Di Đà Phật và cũng họa hình của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cùng Đức Đại Thế Chí Bồ Tát. Hai vị Đại Bồ Tát này là cánh tay Phải và cánh tay Trái của Đức A Di Đà Phật, trong công việc tiếp độ chúng sanh.
Cho nên, cõi Tây Phương Cực Lạc được thể hiện qua hình tượng của 3 vị: Đức A Di Đà Phật, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và Đức Đại Thế Chí Bồ Tát, được gọi một cách trang trọng là Tây Phương Tam Thánh.
Vị giáo chủ của cõi Ta Bà là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Một người bước vào việc tu tập, không thể nào quên được Đấng Cha Lành của mình chính là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Cho nên, vị Phật chánh yếu phải tôn thờ và quán tưởng trong lúc tu tập, chính là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đức A Di Đà Phật cùng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát là biểu tượng của Thế Giới Cực Lạc mà chúng sanh muốn được an trụ sau khi bỏ xác thân. Vì vậy, phải luôn luôn có sự đi đôi giữa hình tượng của Đức Bổn sư và cả ba vị của cõi Cực Lạc.
Ngoài ra, nếu hành giả muốn thờ thêm bất kỳ một vị Phật nào, một vị Bồ Tát nào cũng đều được cả, tùy ở lòng thành tâm của hành giả đó. Việc lập bàn thờ là một việc tùy Tâm, tùy Hỷ, không bắt buộc; tuy nhiên, cũng là điều lợi ích, vì đó là một sự nhắc nhở từng giờ, từng phút, từng giây; từng ngày, từng tháng, từng năm cho hành giả luôn nhớ đến con đường mình đang đi và mục đích của mình trong việc tu tập. Nó cũng nhắc nhở cho mình hiểu, phải tu tập như thế nào để không bị lạc lối, để an toàn đến được bến bờ.
Việc bài trí, trang hoàng, tùy vào tầm nhìn, tùy theo quan niệm của mỗi người. Tuy nhiên, tất cả mọi thứ như Tâm của mình, luôn luôn bình dị, thì chữ Bình mới ở mãi trong Tâm; đừng gây nhiều rắc rối, đừng gây nhiều phức tạp, sẽ khiến cho mình dễ bị vướng mắc.




Lập Bàn Thờ Vong

1. Bàn thờ vong phải đặt một nơi cách xa bàn thờ Phật. Tại sao? Bàn thờ Phật là nơi mà hành giả đến tu tập mỗi ngày. Công năng của việc trì Chú, niệm Phật giúp cho hành giả có được một đạo lực. Đạo Lực này sẽ tỏa ra ánh hào quang, bao trùm Đạo Tràng mỗi khi hành giả ngồi vào tu tập.
Đó là chưa kể, nếu có thiện duyên, sẽ có những vị như Chư Thiên, Chư Thánh, Chư Thần sở tại, nơi vùng đất của hành giả ở, hoặc Hộ Pháp Già Lam, v.v… cùng đến tu tập chung.
Nếu hành giả là một người tu tập chân chánh thì sẽ được sự ủng hộ của các vị này. Cho nên khi tu tập, phải thận trọng rất nhiều, phải giữ gìn tư cách, giữ oai nghi của mình, vì không phải chỉ có riêng mình ngồi tu đâu!
Vong linh vì không còn bị vướng bận bởi ngũ căn nữa, nên có thể nhìn thấu suốt tất cả. Vì vậy vong rất sợ hãi, không dám bén mảng đến Bàn thờ Phật. Do đó mà phải lập một bàn thờ riêng cho vong.
2. Muốn cho vong luôn trụ ở trong nhà trong suốt 49 ngày, khi cho vong nhập vị phải nói với vong rằng: “Hương linh ở tại nơi đây và không đi lẩn quẩn trong nhà, không được ra khỏi bài vị, chỉ khi nào có lời triệu thỉnh vong ra để nhận thức ăn hay cùng tu tập thì vong mới được ra.” Khi thời khóa tu đã chấm dứt, thì phải tiễn vong vào bài vị, vong sẽ an trụ nơi đó để lúc nào cũng nghe câu niệm Phật.
3. Khi cho vong nhập vị rồi (tức là ở trong bài vị), người chủ lễ sẽ thỉnh hai Vị Hộ Pháp để trông coi vong, không cho phép vong được tự do xuất nhập. Thật ra vong cũng không thể tự do xuất nhập, nếu không có lời mời gọi của vị chủ lễ, nhưng hai Vị Hộ Pháp đó cũng vẫn được thỉnh để giữ Vong trong suốt 49 ngày. Đó là hai Vị Hộ Pháp đặc biệt chỉ để canh giữ vong, chỉ cần người chủ lễ khởi tâm cầu nguyện là hai Vị Hộ Pháp đó sẽ xuất hiện và giữ sát vong, cho nên vong không thể nào đi loanh quanh trong nhà được, trong suốt 49 ngày.
 Nên sử dụng loại đèn cầy như trong hình để có thể thắp sáng trong suốt 49 ngày.
4. Nếu không cho vong nhập vị thì chỉ thỉnh vong về trong lúc làm lễ, rồi thì tiễn vong đi. Khi tiễn vong đi, vong sẽ bước ra khỏi nhà và cũng không thể nào tự ý quay trở lại, vì Sơn Thần, Thổ Địa nơi đó không cho phép; chỉ trừ một vài trường hợp rất là đặc biệt, do một nghiệp chướng nào đó, khiến cho vong vào trong nhà của một người, nhưng việc đó cũng rất ít xảy ra.
Khi không cho vong nhập vị, cũng là một điều bất lợi, vong sẽ không chú tâm một cách hoàn toàn vào việc tu tập, vì không có nhà để ở, cái bài vị được xem như là căn nhà của vong linh!
Do đó, nếu người chủ lễ hoặc những người trong gia đình hiểu thấu đáo việc tu tập, thì nên để cho vong nhập vị, giúp cho vong có đủ thì giờ trong suốt 49 ngày, làm đúng những điều mà người chủ lễ hướng dẫn cho vong. Vong đi lang thang cũng khó lòng mà Định được và làm đúng hoàn toàn những điều chỉ dẫn của chủ lễ.
5. Nếu có nhiều người ở nhiều nơi khác nhau, cùng phát tâm thành siêu độ cho chỉ một người, mỗi người đều lập bàn thờ vong, theo nguyên tắc, cần phải có sự thống nhất giữa mọi người là vong sẽ trụ ở đâu?
Tuy là vong trụ lại ở một nơi nào đó, nhưng nếu tất cả mọi người đều hành lễ, đều dốc tâm siêu độ, vong vẫn cảm nhận được như thường. Dù rằng bên kia có cho vong ăn - mà ở nơi này vong đang nghe Pháp, vong vẫn cảm nhận được thức ăn từ ở nơi người bên kia dâng cúng. Cho nên không cần phải di chuyển đi đâu cả.
Chủ lễ nào giảng Pháp hay nói bất kỳ điều gì với vong, vong đều hiểu, đều cảm nhận được hết. Một điều cần phải ghi nhớ là: tất cả mọi thứ phải từ ở Tâm Thành mà ra thì mới có thể giao cảm được với vong, còn làm cho lấy có, lấy lệ, không do một tâm thành, sẽ không có sự cảm nhận của vong đâu!
Nếu cảm thấy mình không hết dạ chân thành, đừng nên đứng ra siêu độ cho vong linh, vì như vậy sẽ mất nhiều thì giờ, mà không đem lại kết quả gì cả, nếu không muốn nói rằng, làm cho vong thất vọng, và không đặt được một niềm tin nơi người chủ lễ.
Cốt yếu của việc làm chủ lễ là để giúp siêu độ cho một vong linh, không phải vì danh, không phải vì tiếng, cũng không phải vì bất cứ lợi lạc nào cả, mà phải vì một cái tâm chân thành và tha thiết.

Lập Bài Vị Cho Vong Linh
Việc lập bài vị cho vong linh, phải theo cách thức như sau:
Nếu có hình ảnh thì để hình ảnh của hương linh vào khuôn hình, kèm theo chi tiết: tên, họ, Pháp danh (nếu có), ngày sanh, ngày mất, tuổi (hưởng thọ hoặc hưởng dương). Nếu vị chủ lễ không phải là thân nhân của người quá cố, những chi tiết này sẽ giúp cho người đó không bị lúng túng khi triệu thỉnh vong.
Nếu không có hình ảnh thì ghi tên họ, Pháp danh (nếu có), ngày sanh, ngày mất, tuổi (hưởng thọ hoặc hưởng dương) v.v… lên một miếng giấy, cắt cho vừa khuôn hình và để vào.
Cách Thức Cho Vong Nhập Vị
1. Chủ lễ đứng trước bàn thờ vong
2. Khuôn hình hoặc bài vị đã sẵn sàng trên bàn thờ vong
3. Chủ lễ đánh 3 tiếng chuông, chấp tay niệm:
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (3 lần)
4. Chủ lễ khấn:
Con tên là ________, xin đem hết Tâm Thành, Tâm Lực làm chủ lễ giúp siêu độ cho Hương Linh tên ________, Pháp danh (nếu có) ________, sanh ngày____ mất ngày____ hưởng thọ ___ tuổi.

Cúi lạy Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giúp cho Hương Linh nhập vị.
Chủ lễ (vẫn còn chấp tay trước ngực) quán tưởng hương linh ở trước mặt, vừa lớn tiếng kêu lên:
“Hương Linh tên ________ nhập vị!”
Vừa vung thẳng tay (đang chấp lại), chỉa thẳng vào khuôn hình, hơi hất nhẹ bàn tay lên.
Chú ý: Trước khi thật sự cho hương linh nhập vị, chủ lễ nên thực tập động tác này, (nhớ khoan quán tưởng), để cho thuần thục, tiếng kêu phải mạnh mẽ, cứng rắn, động tác chắc chắn và gọn.
Ngay sau đó, vị chủ lễ khấn hai Vị Hộ Pháp để bảo vệ cho vong. Chỉ cần khấn như sau:
Con tên ____, nhận làm chủ lễ để siêu độ cho vong linh tên ____, sanh ngày ____, mất ngày ____. Con đã cho hương linh nhập vị rồi, cầu mong hai vị Hộ Pháp hiện diện để bảo hộ cho vong linh.
Tức khắc sẽ có hai Vị Hộ Pháp đến ngay.
Khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát
Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp siêu độ cho hương linh.
Sau lễ an táng, ngay khi dẫn vong về nhà, người chủ lễ đã phải khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát để nhờ Ngài giúp cho hương linh nhập vị.
Mỗi ngày trong mỗi thất, mở đầu nghi thức cúng vong, đều phải thỉnh Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Ở thất thứ bảy, vào ngày thứ 49, phải có lời cầu nguyện của người chủ lễ đến Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát; chỉ có Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát mới thẩm định được, hương linh có đủ tư cách để đi về cõi Phật hay về cõi Trời hoặc về cõi Người. Vì vậy, người chủ lễ phải thành tâm cầu nguyện Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, để Ngài sắp xếp và giúp đỡ cho hương linh được thác sanh theo đúng cảnh giới của mình.
Thời gian 49 ngày là thời gian chuyển đổi, hoán chuyển tâm của một hương linh. Có thể nói rằng, ở thất thứ nhất, hương linh chưa có ý niệm về cõi Trời hay cõi Cực Lạc, nhưng nhờ sự hướng dẫn, giải thích của người chủ lễ mà hương linh giác ngộ và chí tâm tu tập. Chính Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát là người thẩm định được sự chuyển hóa của thần thức, để có thể tiễn thần thức đi về đúng cảnh giới của họ. Người chủ lễ phải hiểu rất rõ việc này, vì người chủ lễ không thể thẩm định được việc tu tập của hương linh như thế nào, chỉ có thể giúp đỡ, chỉ có thể cổ võ cho hương linh tu tập, nhưng người thẩm định việc tu tập chính là Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Đốt Quần Áo Cho Hương Linh

Vong mới mất có cảm thấy lạnh lẽo, cần phải đốt quần áo ấm áp, cúng cho vong không?
Nếu người mới mất đã được liệm với đầy đủ y phục rồi thì không cần thiết; chỉ trừ khi nào mình biết đích xác rằng người đó không có đầy đủ y phục trên người, hoặc không được liệm một cách đàng hoàng, lúc đó mới cúng cho vong quần áo, tất cả những vật dụng cần thiết để cho vong mặc vào.
Nếu trường hợp bắt buộc phải cúng quần áo cho vong, nên cúng đồ thật. Đồ bằng giấy thì vong sẽ sử dụng trong một thời gian ngắn rồi cũng sẽ tiêu đi, nhưng đồ thật thì vong sẽ giữ được lâu hơn. Thường thì nên cúng cho vong hoặc chính đồ của họ lúc còn sanh tiền, hoặc là đồ mới, không nên lấy đồ cũ của người khác mà cúng cho vong; mỗi người, dù sống hay đã chết, đều mang trên người một cái mùi riêng của chính họ, cho nên, hoặc là quần áo của chính họ, hoặc là quần áo mới không có mùi, chưa có ai mặc qua, như vậy vong mới dễ dàng tiếp nhận.
Đã là một cái vong, tức là ở vào trạng thái vô hình, tại sao lại có cảm giác lạnh lẽo, cần quần áo?
Thật sự ra, vong linh chỉ là một cái hơi thôi, rất nhẹ. Tuy nhiên vì vong mới mất, ký ức chưa phai, A Lại Da Thức còn rất mạnh, cho nên vong cảm nhận rất dễ dàng; một người đã mất từ lâu, sự cảm nhận cũng sẽ yếu đi rất là nhiều.
Do ở sự cảm nhận còn rất mạnh, cái vong vừa mới mất, nhìn thấu suốt được những gì xảy ra chung quanh họ.
Gia đình vẫn còn kia, người thân vẫn còn đó, nhưng lạ quá, sao mặt ai cũng buồn bã, đầm đìa nước mắt? Việc gì đã xảy ra? Vong nôn nóng muốn biết rõ nguyên do, nhưng hình như hỏi ai, ai cũng không buồn đáp lại!
Vong ngơ ngác trước một hoàn cảnh mới, cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, mọi người chung quanh hình như trở nên xa lạ, không tỏ ra mừng rỡ, để ý đến vong.
Vong chưa nhận ra được rằng mình đã “CHẾT,” bắt đầu sợ hãi trong một khung cảnh mới. Sự sợ hãi đó khiến cho chút hơi ấm cuối cùng mà thần thức đã mang theo khi thoát ra khỏi thân xác, sẽ tan biến dần đi.
Sự sợ hãi càng gia tăng, hơi ấm càng tan nhanh. Khi đó, vong sẽ cảm thấy lạnh và xiểng niểng như người bị đói.
Thật sự ra, sự đói lạnh chỉ là một sự cảm nhận của vong linh mà thôi. Cảm nhận rằng cái chung quanh quen thuộc của mình không còn. Khi còn sống, vong được bao bọc bởi một căn nhà ấm áp, trên một cái giường cũng ấm áp, và chung quanh hơi người cũng ấm áp, có lò sưởi ấm áp, và được no nê. Thoắt một cái, thần thức thoát ra khỏi thân xác, bỗng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng và sợ hãi.Người còn sống cũng có cùng một cảm giác như thế mỗi khi sự sợ hãi dâng cao, thần kinh căng thẳng tột độ, sau cơn sợ đó rồi thì mệt lả người, vừa đói, vừa run, vừa lạnh!
Vì vậy mà cần phải cho vong nhập vị!
Người chủ lễ theo đúng nghi thức, giúp cho vong nhập vị để vong được an trụ trong một nơi không quá rộng rãi, vong sẽ cảm thấy ấm áp hơn và đỡ sợ hãi hơn.
Triệu Thỉnh Hương Linh

Người chủ lễ thành tâm, chân chính, sẽ giao cảm một cách rất dễ dàng với hương linh thân nhân, chỉ cần một lời khấn là hương linh đó sẽ hiện đến ngay. Không cần phải trì Chú triệu thỉnh.
Tuy nhiên để bảo vệ người chủ lễ, việc triệu thỉnh vong nên nhờ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giúp đỡ.
Người chủ lễ thành tâm khấn trước bàn thờ vong như sau. Đánh 3 tiếng chuông, chắp tay khấn:
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (3 lần)

Cúi lạy Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Cúi lạy các vị Hộ Pháp đang bảo vệ cho Hương linh tên là ________ Pháp danh ________ sanh ngày ________ mất ngày ________ hưởng thọ ____ tuổi.

Con tên là ________ hôm nay đứng làm chủ lễ giúp siêu độ cho vong linh tên ________ Pháp danh ________.

Cúi xin Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát cùng hai vị Hộ Pháp đưa giúp hương linh đến ngay Đạo Tràng để hành lễ.

Cúng Cơm Cho Hương Linh

Vấn đề cúng cơm trong 49 ngày, cúng bao nhiêu lần, cúng những thức ăn gì?
Đúng lý ra, vong cần Pháp thực hơn cần vật thực. Tuy nhiên, lòng thương yêu của người còn sống đối với thân nhân quá cố được biểu lộ  bằng cách cho ăn, chớ thật sự ra, vong không cần phải ăn đâu!
Vong cần Pháp thực để có thể hiểu rõ, để có thể rung cảm được. Một khi rung cảm được thì vong có thể siêu được một cách dễ dàng.
Tuy vậy, muốn cho vong ăn thì cũng được; nếu có nhiều thì giờ thì cho vong ăn mỗi ngày, nếu không có nhiều thì giờ thì cho vong ăn mỗi tuần, hay mỗi hai tuần, tùy ở lòng hảo tâm của người chủ lễ, không nhất thiết lắm.
Một người khi còn tại thế, có thể ăn bất kỳ một con vật nào hợp với khẩu vị của họ, nhưng khi đã bỏ xác thân rồi, bất luận là dân tộc nào, tôn giáo nào, vong cũng chỉ hưởng đồ thanh nhẹ, không hưởng những đồ nặng được (như tôm, cua, sò, ốc, thịt, cá…).
Trong thời gian người chủ lễ hành lễ siêu độ cho vong, người chủ lễ bắt buộc phải trường chay trong 49 ngày, có thể dùng những thức ăn của người chủ lễ để chia lại cho vong cũng rất tốt; tức là tuyệt đối phải cúng thức ăn chay cho Vong.
Biến Thực Biến Thủy
Khi dâng cúng đồ ăn thức uống cho vong, người chủ lễ có cần phải trì Chú biến thực biến thủy không?
Biến thực biến thủy là biến đồ ăn thức uống ra nhiều để tất cả các vong đều nhận được cả.
Nếu cúng cho 2 vong linh cùng chung một bàn thức ăn thì lúc đó phải biến thực biến thủy. Nếu cúng cho 2 vong linh ở 2 bàn thờ vong khác nhau thì không cần phải biến thực biến thủy. Thức ăn của vong linh nào thì vong linh đó hưởng khi được dâng cúng.
Nếu cúng cho nhiều vong linh ở tại 01 bàn thờ vong thì phải biến thực biến thủy để tất cả các vong đều nhận được đồ ăn thức uống.[1]
Việc trì Chú Biến Thực Biến Thủy đòi hỏi một sự quán tưởng. Người chủ lễ chưa biết tu tập, đem tâm lực của mình để siêu độ cho Hương Linh, nên tránh những việc khiến cho mình lúng túng, không trôi chảy trong khi hành lễ - vả lại thân nhân quá cố cũng chỉ một người, cho nên lấy tâm thành khấn nguyện khi dâng cúng thức ăn cho hương linh là đủ rồi.
Tất cả mọi việc không nên cưỡng cầu, làm trong khả năng gánh vác được của mình. Điều quan trọng chính là sự Thành Tâm, Thành Ý của mình đối với vong linh.
Thức ăn được bày ra để cúng cho vong, cũng chỉ tượng trưng một vài món, chứ không cần phải quá nhiều. Vong không ăn và nuốt như người đời đâu! Vong chỉ hưởng hơi thôi, vì có thân xác đâu để mà ăn với uống. Tất cả mọi thứ cũng chỉ là qua Ý Thức mà thôi.
Khai Yết Hầu
Nên nhớ rằng: vong linh chỉ là một cái bóng rất nhẹ, cần phải trì Chú Khai Yết Hầu,[2] vong mới có thể hấp thụ dễ dàng được hết những cái hơi từ ở thức ăn dâng cúng.
Trong thời gian 49 ngày, vong linh còn cảm giác mình hiện hữu, do đó mà mới có vấn đề đói lạnh. Sở dĩ có vật thực là tại vì hương linh chưa nhận thức được rằng mình đã mất, cho nên vẫn còn cảm giác đói no, vì vậy mà phải cho hương linh được thỏa cái cảm giác đó của mình. Nhưng muốn cho hương linh thỏa được cái cảm giác đó, phải có câu thần Chú Khai Yết Hầu để khơi dậy cái thức của hương linh, giúp hương linh nhận ra rằng đây là đồ ăn thức uống. Khi hương linh nhận biết được thì hương linh sẽ hấp thụ được, nếu hương linh không nhận biết được thì sẽ không hấp thụ được.
Cho nên việc hương linh hấp thụ được lý cao siêu của lời Kinh, của câu trì Chú, niệm Phật, của lời giảng Pháp, sẽ giúp cho cái Thức của hương linh sáng rực lên. Pháp thực cần hơn vật thực ở điểm đó vì sẽ giúp cho cái thức của hương linh được sáng lên, tức là cho hương linh cái Trí Huệ.
Với cái Trí Huệ đó, hương linh mới nhận ra được hướng đi của mình và biết được nên đi về đâu, nếu có sự chọn lựa giữa Cõi Trời hay Cõi Phật hoặc Cõi Người. Thời gian 49 ngày là thời gian “đặc ân.” Dù rằng khi còn sống, hương linh không đủ tư cách để được vãng sanh về cõi Cực Lạc hay được về Cõi Trời, nhưng nếu trong thời gian 49 ngày, hương linh hết dạ chân thành ăn năn sám hối, biết bỏ xuống hết tất cả những phiền não và nhận chân ra được rằng mình đã làm điều sai trái, hương linh sẽ có toàn quyền trên sự lựa chọn của mình giữa 3 cõi Phật – Trời – Người.
Vật thực dâng cúng cho vong, ngoài trà, nước hoặc nước ngọt, có nên cúng rượu hoặc bia hay không?
Nên nhớ rằng: vật thực cho vong gồm tất cả những gì thật là giản dị thì vong sẽ nhận được, còn những gì rườm rà vong khó lòng nhận được.
Sắp dọn cho vong ăn có cần phải đặt chén, dĩa, muổng, đũa hay không?
Thật ra vong cũng không cần đến muỗng nỉa gì hết, vong chỉ hưởng mùi thôi. Cho nên, cần phải dùng những thức ăn thật là thanh.
Vong Thật Sự Cần Những Gì?
Điều quan trọng không phải là cho vong ăn, mà chính là phải giúp cho vong sám hối, sám hối rất nhiều!
Khi một người bỏ thân xác, không phải rằng chỉ một hiện kiếp, là người đó có thể thanh toán hết tất cả nghiệp lực của mình trong quá khứ, đó là chưa kể rằng trong hiện kiếp, người đó đã còn tạo ra những nghiệp lực mới nữa. Cho nên vong phải sám hối, sám hối không ngừng. Vì vậy thời giờ cho vong ăn, nên để dành cho vong sám hối, niệm Phật và giảng Pháp cho vong nghe.
Cho nên, đừng quan trọng hóa việc cho vong ăn, đó là tư tưởng thường tình của chúng sanh, có cho ăn thì mới tỏ rõ được tấc lòng thương yêu, trìu mến. Đối với một vong linh, làm sao cho thần thức rung động nhanh chóng để tìm ra đúng con đường đi kế tiếp của mình, đó mới là một tình thương đúng nghĩa, một sự chắt chiu hợp lý, hợp tình của người ở lại.
Người đời đặt ra rất là nhiều nghi thức, bảo phải như vầy, như vầy, và biến cái không thành cái có.
Cái không là cái gì?
Cái không là vong linh. Biến thành cái có, là vong linh biến trở lại làm người. Cho nên đặt ra rất nhiều nghi thức rườm rà. Thoạt xem qua thì tưởng là có ích lợi cho vong, nhưng thật sự ra thì không có gì ích lợi cả.
Vong cần phải bỏ xuống cái gánh nặng của mình. Nếu một vong linh nào vào giờ phút lâm chung, không tự siêu thoát được, thì phải chắc chắn rằng, vong linh đó bị vướng mắc.
Hơi ấm cuối cùng dù rằng tụ lại ở ngực, tức là được trở lại kiếp Người, nhưng vẫn phải siêu độ, vì sao?
Vong linh đó không bị đọa, có nghĩa là không bị vướng mắc quá nhiều đến nỗi phải bị đọa, nhưng vẫn có vướng mắc; không có vong linh nào trở lại kiếp người mà không bị vướng mắc cả. Cho nên, nếu hơi ấm cuối cùng tụ từ ngực trở xuống, bắt buộc phải siêu độ để cho các vướng mắc đó được trở nên nhẹ nhàng.
Mà những vướng mắc đó là cái gì? Tức là những nghiệp lực của mình, nhân quả mình tạo ra, những điều sai trái mình làm, những suy nghĩ sai lầm của mình. Tất cả những cái gì không nằm trong chữ Đúng, đều phải giúp cho vong cởi bỏ xuống. Những nỗi oan tình, ẩn ức, những uẩn khúc không bày tỏ được… tất cả những điều đó thuộc về Sân Hận, khiến cho vong linh khó lòng cất bước. Vì vậy bắt buộc phải siêu độ.
Những người được ra đi tức khắc, sinh về Cõi Trời hay Cõi Phật, những người đó không cần phải siêu độ. Cho nên, siêu độ cho vong linh, điều quan trọng là phải làm sao để cho vong linh thấu hiểu được rằng, vong linh ra đi mang hành trang quá nhiều, mà hành trang đó không phải là những hành trang quý báu. Hành trang đó chỉ là những cục đá mà thôi, mang theo làm gì cho nặng nề. Do đó, cần phải giúp cho vong linh soạn lại cái hành trang của mình, để cho được nhẹ nhàng hơn.
Tất cả những nghi thức nào giúp cho vong linh được nhẹ nhàng cất bước, nhìn thấu suốt được con đường mình đi, nói tóm lại, là giúp cho vong linh sớm siêu thoát, các nghi thức đó đều chấp nhận được. Ngoài ra đó, những gì rườm rà, không ích lợi cho vong linh thì không nên đặt thành vấn đề và không nên xem nó là cần thiết.
Vong linh cần Pháp thực hơn là vật thực. Cúng một chén cơm, cúng hai chén cơm, cúng ba chén cơm hay cúng một chục chén cơm, vong linh cũng chỉ hưởng được hơi cơm mà thôi. Không nhất thiết phải là mâm cao cỗ đầy, đồ ăn phải thật là ngon, chỉ cần làm sao đồ ăn thật tinh khiết, để vong có thể hấp thụ được cái hơi mà thôi, càng tinh khiết chừng nào thì vong linh càng dễ dàng hấp thụ chừng nấy.
Nếu không thể nào nấu ra thành món ăn, chỉ cần 1 chén cơm, vong linh cũng vẫn hưởng được, không sao cả.

________________________________________
BIẾN THỰC CHƠN NGÔN
Nam mô tát phạ đát tha nga đa, phạ lồ chỉ đế. Án tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (7 lần)
CAM LỘ THUỶ CHƠN NGÔN
Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha. Án tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta bà ha. (7 lần)
KHAI YẾT HẦU CHƠN NGÔN:
Án, bộ bộ đế rị, dà đa rị đát đa nga đa da. (7 lần)
Việc Siêu Độ Cho Hương Linh Có Nhiều Đứa Con

Một người cha hay một người mẹ có nhiều đứa con, nếu hoặc cha hay mẹ mất đi, con cái của họ đồng phát tâm hoặc có một số phát tâm để siêu độ thì:
1. Nếu con cái cùng tụ về một nơi, cần ghi nhận:
a. Người con biết tu tập sẽ đảm nhận vai trò chủ lễ. Những người con khác đem Tâm Lực của mình phụ trợ cho chủ lễ trong việc siêu độ.

b. Nếu có nhiều người con cũng biết tu tập thì mỗi người thay phiên nhau làm chủ lễ; người này hành lễ xong thì tới phiên người kia.

Điều cốt yếu là giúp cho vong linh sám hối nhiều chừng nào tốt chừng nấy, việc giảng Pháp cũng không kém phần quan trọng. Tỉ tê giảng giải để cho vong hiểu và thấm thía.

Chỉ cần cho vong ăn một lần trong ngày, nhưng có thể giảng Pháp cho vong nghe 3 lần trong ngày cũng vẫn rất tốt.

Các vị chủ lễ chia phiên nhau mà hành lễ, 2 lần hay 3 lần trong ngày đều rất lợi lạc cho vong linh.

c. Ngoài các người con, còn có các thân nhân khác, bạn bè, thân quyến, mỗi người đồng đem tâm thành của mình mà siêu độ cho vong linh, chắc chắn rằng vong linh sẽ sớm thoát khỏi những vướng mắc trong lòng mà an ổn ra đi.
Nên nhớ kỹ một điều, đem hết sự chân thành siêu độ cho vong linh, công đức đó, người hành trì siêu độ hưởng 6 phần, vong linh hưởng được 1 phần.
Nếu càng có nhiều tấm lòng thành, thì công đức vong linh được hưởng càng nhiều, sự ra đi xem như cái búng tay, và hành trang của vong linh khi đó lại càng thêm nặng trĩu các đồng tiền Công Đức.
Người đời thường đưa tiễn vong linh bằng câu chúc: “Cầu cho Hương Linh được siêu thăng Tịnh Độ.”
Trong trường hợp này, có bắt tay vào việc siêu độ cho vong linh, có hết dạ chân thành siêu độ cho vong linh, có trân trọng trao tặng cho vong linh những đồng tiền Công Đức, các thân bằng quyến thuộc mới thể hiện một cách tuyệt vời và đúng nghĩa lời chúc kể trên.
Cần phải luôn luôn tâm niệm rằng: Việc siêu độ đòi hỏi một sự Thành Tâm Thành Ý tối đa. Nếu kẻ thành tâm chỉ có một, mà người “lơ là” lại số đông, thì kết quả cũng chỉ là một mà thôi! Vong linh cũng chỉ hưởng có một phần công đức do người thành tâm thành ý ban cho.
2. Nếu con cái ở rải rác nhiều nơi:
a. Những người biết tu tập hoặc chưa biết tu tập nhưng có Tâm Lực mạnh cũng muốn đứng ra siêu độ cho cha hoặc mẹ mình, tất cả sẽ hội ý với nhau và ấn định thời khóa siêu độ.

b. Người chủ lễ chánh thì chọn một buổi nào đó trong ngày. Các người khác chia nhau các buổi còn lại.

c. Việc siêu độ của từng đứa con, sẽ giúp cho vong linh cảm nhận được một sự ấm áp của không khí gia đình luôn tràn đầy, do đó vong linh sẽ cảm thấy ít đói lạnh hơn.
Ghi Nhớ:
Trước khi bắt tay vào việc hành trì siêu độ, chủ lễ nên đọc thật kỹ từng phần của những lời giảng giải, ghi chú những phần nào, những chi tiết nào cần thiết phải làm, có lớp lang, thứ tự để dễ dàng tuần tự tiến hành, không vấp váp, không lúng túng.
Hướng Dẫn Phần Nghi Thức
Việc tu tập bao gồm:
Sám hối
Trì Chú
Niệm Phật
Đọc Pháp và Giảng Pháp
Đây là những nguyên tắc căn bản áp dụng cho người sống lẫn người chết.
Người đã lìa đời, không còn đủ căn thức để tự buộc mình hành việc tu tập mà cầu giải thoát, tháo gỡ những vướng mắc mình tự buộc ràng từ khi còn tại thế. Có khi cũng không hiểu, không nhận chân ra được là mình đã làm sai, hay hiểu sai về một việc gì.
Khi còn sống không tha thiết đến việc tu tập, trí huệ không được phát sáng. Khi đã bỏ báu thân rồi, thần thức cũng tối mò mò, không phân định được hướng đi của mình.
Người chủ lễ có bổn phận giúp cho hương linh đốt sáng ngọn đèn trí huệ của mình qua việc Sám Hối, Trì Chú và Niệm Phật.
Sau đó, dùng lời Pháp để giảng dạy, dẫn dắt cho vong “MỞ TRÍ,” phân biệt được điều đúng sai, nên hay không nên. Vong có được chút trí huệ phát sáng, tìm đường thác sanh rất dễ dàng.
Sám Hối

Phật Thuyết Kinh Thập Nhị Phật Danh So Sánh Công Đức Trừ Chướng Diệt Tội là một món quà vô cùng quý giá cho chúng sanh trong việc sám hối các nghiệp chướng của mình.
Mười hai vị Phật được Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật nêu lên, đặc biệt có một oai thần lực rất lớn trong vấn đề giúp cho chúng sanh sám hối.
Nếu chúng sanh nào thật lòng ăn năn sám hối Nghiệp Tội của mình, đem hết Tâm Lực, Ý Lực, Cường Lực để vào việc sám hối, tức khắc các tội lỗi của mình, những điều sai trái gây tạo, nhờ vào oai thần lực của các Vị Phật này, mà được “Lắng Xuống.”
Lắng xuống, chớ không phải tiêu tan! Lắng xuống và tiêu tan là hai trạng thái khác nhau.
Tiêu tan là không còn hiện hữu.
Lắng xuống là vẫn còn hiện hữu ở nơi đó, nhưng không nổi lên để quấy phá.
Mười hai vị Phật này giúp cho những tội lỗi đó được lắng xuống. Rồi thì sự quyết tâm tu tập hằng ngày, nếu được tiếp tục đều đặn, sẽ giúp cho các tội đó được phai đi cho đến khi biến mất.
Chúng sanh thường hay nghĩ sai, bảo rằng: niệm các danh hiệu Phật này rồi thì bao nhiêu tội chướng đều tiêu tan hết. Không phải như vậy, phải hiểu cho tận cùng thâm sâu của việc sám hối. Khi một người hết dạ chân thành sám hối, các nghiệp tội mình làm sẽ được nhận biết và lắng xuống. Nhưng, muốn cho các nghiệp tội này được tiêu tan, thì đòi hỏi phải có sự dốc tâm tu tập. Người hành trì nghi thức sám hối này mỗi ngày, sẽ giúp cho các tội chướng của mình lắng xuống, rồi thì với tất cả Tâm Lực, Ý Lực, Cường Lực khi tu tập, sẽ làm cho từng tội, từng tội được phai đi … phai đi.
Oai lực của mười hai vị Phật này giúp cho bao nhiêu tội lỗi của hành giả được lắng xuống. Đó là điểm khác biệt giữa nghi thức sám hối này với tất cả những nghi thức sám hối khác.
Hành giả có thể niệm bất kỳ danh hiệu Phật nào khi hành trì nghi thức sám hối. Tuy nhiên, phải ghi nhớ rằng: Các vị Phật đó chỉ chứng minh tấm lòng ăn năn sám hối của hành giả chớ không cho ra một oai lực nào cả.
Riêng đối với các vong linh, oai thần lực của mười hai vị Phật này rất là mạnh mẽ và khiến cho các vong linh được nhẹ nhàng, không còn phải đeo mang những tội, nghiệp mà mình đã tạo nên từ tiền kiếp, cho đến kiếp vừa qua, khiến cho vong linh rất là nặng nề. Oai thần lực của các vị Phật này làm cho các nghiệp, tội đó được lắng xuống, nhẹ nhàng, không còn một cảm giác nặng nề nữa. Tuy nhiên, nó vẫn còn nằm ẩn trong A Lại Da Thức của vong linh, để rồi sau đó, vong linh cần phải đem công năng tu tập của mình mà làm tiêu lần đi nghiệp tội của mình.
Ngoài nghi thức sám hối Thập Nhị Phật Danh So Sánh Công Đức Trừ Chướng Diệt Tội, còn có các nghi thức sám hối khác như:
1. Mười hai vị Phật trong Kinh Vô Lượng Thọ:

Những vị Phật này có liên quan rất là mật thiết với Cực Lạc, nhưng cũng là ở vào vai trò Chứng Minh chớ không đưa oai lực để giúp cho hành giả hay cho vong linh.

2. Trong Nghi Thức Hồng Danh Bửu Sám: hành giả phải trì niệm danh hiệu của 88 vị Phật.

3. Nghi thức Sám Hối do cố Hòa Thượng Thích Trí Tịnh soạn, gồm có 35 vị Phật rút ra từ Kinh Đại Bảo Tích.

Trong 3 nghi thức Sám Hối kể trên, những vị Phật chỉ đóng vai trò “Chứng Minh” mà thôi, chớ không thực sự đóng góp vào việc làm “Lắng Xuống” các nghiệp tội của hành giả hay của vong linh.

4. Lương Hoàng Sám: Người Xuất gia lẫn tại gia đều hành trì được Lương Hoàng Sám, nương vào lòng Từ Bi của rất nhiều vị Phật trong 10 phương.

Tuy nhiên, nghi thức sám hối này rất khó có thể giúp cho người chủ lễ siêu độ cho vong linh vì quá sức dài, mất nhiều công sức, chỉ trừ khi nào thân nhân dốc lòng quyết tâm, bất kể ngày giờ, bất kể công sức thì mới dùng đến nghi thức này.

5. Từ Bi Thủy Sám Pháp: để giải oan trái giữa đôi bên, mà oan trái đó rất là nặng nề và đã trải qua nhiều đời, nhiều kiếp rồi.
Sám Pháp này không dùng cho việc sám hối đâu! Trong trường hợp siêu độ cho vong linh, không dùng nghi thức này.
6. Trì Chú
7.
8. Người chủ lễ sẽ hướng dẫn để cho hương linh trì 3 câu Chú dưới đây nhiều chừng nào tốt chừng nấy!
9. 1. Chơn Ngôn Siêu Độ Cho Hương Linh
10. Âm: HA-ANH CA THU SHU PHU!
11. Vong linh thật sự cần cái gì? Vong linh cần được nhẹ nhàng để ra đi. Nếu người chủ lễ không biết một cách rất rõ ràng ý muốn của vong linh, và đạt chưa đến được một cách sâu rộng ý muốn đó, thì vẫn có thể giúp cho vong linh được nhẹ nhàng, cởi bỏ những khúc mắc, mà tiếp tục đi theo nghiệp của mình.
12. Người chủ lễ đem hết tâm lực của mình cùng với vong linh trì câu Chú này, giúp cho vong từ từ thấm lần … thấm lần. Câu Chú có tác dụng là giúp cho vong linh được nhẹ lần … nhẹ lần để ra đi.
13. 2. Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn
14. Tiếng Phạn: OṂ MAṆI PADME HŪṂ
15. Tiếng Việt: ÁN MA NI BÁT DI HỒNG
16. Lục Tự Đại Minh rất là mạnh, công năng của câu thần Chú này có tính cách dời non, lấp biển, Vị chủ lễ cũng như hương linh đều rất cần trì câu Chú này để giúp Trí Huệ phát sáng. Vong linh trì Lục Tự Đại Minh xem như là đốt lên một điểm sáng, rồi từ đó tỏa rộng ra, không khác một ánh lửa, và đồng thời Trí Huệ được phát sáng, giúp cho hương linh cảm thấy ấm áp, phân định được mọi sự việc chung quanh mình, và thâm nhập được lời giảng Pháp của chủ lễ.
17. 3. Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú
18. Tiếng Việt:
19. Nam mô A di đa bà dạ, đa tha già đa dạ. Đa điệt dạ tha: A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.
20. Tiếng Phạn:
21. Namo amitābhāya, tathāgatāya. Tadyathā: Amṛtodbhave, amṛta siddhaṃbhave, amṛta vikrānte, amṛta vikrānta, gamine gagana, kìrtti kare svāhā.
22. Cách đọc theo tiếng Phạn:
23. Nam mô a mi ta ba da, thách ta ga ta da. Tách da tha: A mia tô út pha wê, a mia ta xăm pha wê, a mia ta vi ca ranh tê, a mia ta vi ca ranh ta, ga mi ni ga ga na, kia ti ca ri soa ha.
24. Người hay trì tụng Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú sẽ được Đức A Di Đà Phật thường trụ trên đỉnh đầu của người ấy, ngày đêm ủng hộ, không để cho oan gia được dịp thuận tiện hãm hại, đời thường an ổn, sau khi mạng chung, được tùy ý vãng sanh.
25. Người chủ lễ cần hướng dẫn cho vong linh trì thần Chú này thật nhiều, kèm với niệm Phật thật nhiều, để cơ hội được vãng sanh càng lên cao hơn.
26.
Niệm Phật
Nếu trong gia đình có người rảnh rỗi , hoặc có trẻ em nào có thể dạy cho các em niệm Phật được, thì khi đến phần niệm Phật, vị chủ lễ nên nhờ người phụ cùng niệm Phật, để tạo một cái lực mạnh giúp cho vong niệm Phật được trơn tru.
Nên ghi nhớ:  Cố gắng đừng để tâm viên ý mã trong lúc niệm Phật. Phải nhứt tâm mới có được hào quang phát sáng khi niệm Phật, do đó mới bao bọc được vong trong cái hào quang đó.
Các trẻ thơ tâm không gợn bất kỳ tư tưởng nào. Nên tập cho các cháu niệm Phật hằng ngày, vừa lợi lạc cho các cháu, mà cũng rất là hữu ích khi cần thiết.
Niệm Phật càng nhiều càng tốt, tối thiểu phải là 10-15 phút.
Người chủ lễ khuyên vong nếu muốn được vãng sanh về Cõi Phật, phải niệm Phật liên tục, niệm Phật không phải chỉ trong khóa lễ tu tập, mà sau khi hồi vị rồi, cũng vẫn phải tiếp tục niệm Phật. Càng niệm Phật nhiều, vong càng cảm thấy nhẹ nhàng, dễ dàng cất bước.
Vai Trò Của Trẻ Thơ Trong Việc Siêu Độ

Tâm của trẻ thơ rất là trong trắng, lời của trẻ thơ thốt ra là một lời chân thật không che đậy, cho nên cần phải dạy cho các cháu niệm Phật hay trì Chú. Một câu niệm Phật của các cháu cũng sẽ giúp cho vong linh rất … rất là nhiều. Câu niệm Phật rất quan trọng, một người niệm Phật với một tâm như như bất động, không bị tâm viên ý mã, nói tóm lại là với một Tâm Bình thì mới phóng hào quang được. Đối với những đứa bé khi niệm Phật, câu niệm Phật của chúng sẽ phóng hào quang, vì đó là một tâm hoàn toàn trong suốt. Người niệm Phật giữ tâm bình, có nghĩa là giữ tâm của một đứa bé (còn được gọi là Tâm Đồng Tử).
Cho nên dạy cho trẻ thơ niệm Phật để siêu độ cho người quá cố thì rất là đúng và cần thiết. Đối với những đứa trẻ có thể trì Chú được, nên dạy cho các cháu câu thần Chú. Nếu trì Chú thì có thể trì Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn, hoặc Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú. Trì 2 câu Chú này mà giữ một tâm bình, tâm trong sáng, thì câu Chú sẽ phóng hào quang rất là chói chang. Vong linh được bao che trong hào quang đó, sẽ cảm thấy nhẹ nhàng thơ thới, và những người đang hành trì việc siêu độ, cũng sẽ được bao che bởi ánh hào quang của Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn, hoặc của Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú.
Tại Sao Nên Siêu Độ Ở Tại Nhà?
Tại sao thân nhân nên làm việc siêu độ cho vong linh tại nhà trong 49 ngày, mà không ký linh cho chùa chiền?
Thông thường, việc ký linh vào chùa là vì những lý do sau đây:
1.    Thân nhân hay sợ hãi, nhất là có rất nhiều người sợ ma, không dám để hình của hương linh ở nhà, vì thấy rằng đi ra đi vào cứ nhìn thấy hình của người mới mất, có cảm tưởng rằng người đó đang phảng phất đâu đây, cho nên cứ sợ hãi. Vì vậy mà đem ký linh thân nhân mình vào chùa cho đỡ sợ.
2.    Vì không biết những nguyên tắc, những nghi thức để cúng cho vong trong thời gian 49 ngày.
3.    Do sự biếng nhác của thân nhân, vì phải làm công việc đó trong suốt 49 ngày. Đây là sự thật, không thể phủ nhận!
4.    Vì những thân nhân của hương linh không tha thiết đến việc tu tập, cho nên cứ đem hương linh giao phó cho chùa chiền, rồi thì chùa chiền muốn làm gì cũng được. Sau 49 ngày là phủi tay xong việc!
5.    Thân nhân cho rằng: vì bận bịu với công việc làm ăn hằng ngày nên không có thì giờ để hành trì siêu độ cho người quá vãng.
Đối với người chủ lễ chưa biết tu tập, thì đây là một cơ hội tốt để người này, vừa bày tỏ lòng thương yêu của mình đến người quá cố và cũng là dịp để tập tễnh bước vào đường tu tập. Dù là một sự bắt buộc tu tập, hay là một sự phát nguyện tu tập, đây vẫn là một dịp rất tốt để làm bàn đạp cho việc thăng hoa sau này.
Lúc đầu thì cảm thấy khó chịu, lúng túng, nhưng sau đó không bao lâu, khi suy nghĩ lại, vì tình thương yêu của mình đối với người đã mất, cũng mong mỏi cho người đã mất được ung dung tự tại, được siêu thoát nhẹ nhàng, cho nên, thôi thì bấm gan bấm bụng mà tu! Rồi thì từ từ, mỗi ngày một chút, đến khi thâm nhập lúc nào không hay. Vì vậy mà thời gian 49 ngày, đủ để giúp cho một người, từ một tư tưởng, một cảm giác bị bắt buộc, trở thành ra tự nguyện hay phát nguyện tu tập.
Việc siêu độ cho hương linh ở tại nhà có một điều lợi ích, là sự giúp đỡ cho hương linh được dễ dàng hơn. Trong 49 ngày, hương linh chưa nhận ra được mình đã mất, vẫn còn lẩn quẩn ở trong gia đình, cho nên hương linh không cảm giác nhiều về sự đói lạnh, vẫn còn cảm nhận được không khí gia đình. Vì vậy, người chủ lễ sẽ cảm thấy gần gũi hơn với hương linh, và vì biết rõ được những điều thầm kín, những khúc mắc của hương linh, người chủ lễ sẽ tỉ tê, khuyên giải mỗi ngày. Như vậy giúp cho hương linh bừng sáng rất nhiều.
Số hương linh ký gởi tại chùa quá đông, người chủ lễ ở tại chùa cũng không có nhiều thì giờ để tìm hiểu gốc gác, ngọn ngành của mỗi hương linh. Việc đánh thẳng, đánh mạnh vào trong những khúc mắc của mỗi hương linh, hoặc tỉ tê, khuyên giải từng vong linh mỗi ngày, điều đó vị chủ lễ gần như bó tay, không làm được. Ngoài ra, còn phải kể đến tâm thành, tâm lực, đạo lực của người chủ lễ rất là nhiều.
Nhà chùa lấy dạ Từ Bi đối với Phật Tử, không nỡ chối từ bất cứ một hương linh nào cả.
Tuy nhiên, làm sao có thể so sánh được sự săn sóc của viện dưỡng lão với sự chăm lo, chắt chiu của gia đình, đối với thân nhân già nua hay tàn tật của mình.
Nếu cảm thấy rằng: việc siêu độ cho hương linh đem lại lợi lạc cho kẻ Dương Thế lẫn người cõi Âm thì nên tiến hành việc siêu độ tại nhà, làm giảm bớt đi gánh nặng cho nhà chùa.
Hương linh để tại nhà cũng vẫn tốt hơn, vì ngoài người chủ lễ, còn có thể có những người thân khác; tuy rằng họ không được như người chủ lễ, nhưng cũng đem tấc dạ chân thành của mình ra để cầu nguyện cho hương linh, thì cũng giúp cho hương linh rất nhiều trong vấn đề siêu thoát.
Cho nên, một người nào có thân nhân vừa mới qua đời, nên cố gắng tự mình siêu độ cho vong linh của thân nhân mình, vì đó là cơ hội để giúp cho mình có thể bước vào đường tu tập, hoặc được thăng tiến trên đường đạo, nếu mình đã từng có tu tập rồi, và điều quan trọng là dễ dàng giúp cho thần thức của thân nhân mình hiểu biết và rung động để siêu thoát được.
Việc sợ hãi một người mới mất, đó là vấn đề tâm lý. Thật sự ra mình phải nghĩ rằng: một khi mình mất rồi, những người khác có sợ như vậy hay không? Tại sao mình lại sợ một cái vong? Cái vong không làm gì được cả. Đối với một người vừa mới qua đời, tất cả mọi việc chung quanh họ đều làm cho họ rất bỡ ngỡ.
Khi còn sống, họ nhìn sự vật với đôi mắt của họ, với nhãn thức của họ, tất cả mọi thứ đều đóng khung. Họ không thể nào nhìn cái gì quá cái khung của đôi mắt họ được. Nhưng một khi đã trở nên một cái vong rồi, tầm nhìn của họ không bị đóng khung nữa. Họ có thể nhìn thấu hết tất cả mọi vật. Ngay cả những thân nhân của họ, tâm tánh như thế nào, họ đều nhìn thấu rõ, nhưng bảo rằng, những vong này có thể làm hại bất kỳ ai thì việc đó không có. Vong mới vừa mất chưa đủ sức để làm việc đó đâu! Như vậy đâu có gì để phải sợ hãi cái vong?
Tại sao lại có sự phân biệt giữa người đã mất với người còn sống? Sự sợ hãi có được là do người còn sống tự đặt một ranh giới, giữa người đã mất và người chưa mất. Giả sử rằng, người đã mất này hiện đang ở cùng một khu phố với mình, mà mình không biết được rằng người này đã mất, thì liệu rằng mình có sợ hãi hay không? Cho nên, tất cả đều là do người sống đặt ranh giới để tạo sự sợ hãi.
Phải hiểu rằng: Sanh – Lão – Bệnh – Tử, có sanh thì có tử, người đi trước, kẻ đi sau, không ai thoát được vòng lẩn quẩn đó, vì vậy mà nên từ bỏ tư tưởng sống chết. Hãy xem đó là một điều đương nhiên phải chấp nhận! Có sanh ra thì phải có chết, để không cảm thấy rằng, có một sự khác biệt ở trong đó.
Trong phần nghi thức siêu độ, mỗi ngày, trước khi hành lễ, người chủ lễ phải trì Chơn Ngôn Phát Hào Quang. Câu Chú này giúp cho trong nhà rất thanh tịnh, không có gì phải sợ hãi cả.
Kế tiếp là phải tự hỏi rằng, mình có thật lòng chan chứa tình cảm với người đã mất hay không? Có xem người đó giống như thuở người đó còn sống hay không? Có một tình thương dạt dào với người đó hay không? Khi người đó còn sống thì mình làm thế nào để giúp cho người đó được vui vẻ, được cảm thấy hạnh phúc? Bây giờ người đó không còn hiện diện nữa, phải làm cái gì để giúp cho người đó được tốt đẹp, được thăng hoa? Khi còn sống thì người đó hưởng hạnh phúc, nhưng khi người đó đã mất rồi thì người đó phải được thăng hoa.
Khi mình đặt những câu hỏi đó, thì mình sẽ có câu trả lời là, “tôi phải làm một cái gì!” Và chính câu trả lời, tôi phải làm cái gì để giúp cho thân nhân của tôi được thăng hoa, sẽ giúp cho tôi tìm tòi tất cả những phương cách, phương tiện để giúp đỡ cho thân nhân.
Khi đã hiểu được chuyện đó rồi thì dễ dàng bước vào việc tu tập. Việc tu tập, bước ban đầu là vì thân nhân, cho thân nhân, tất cả giúp cho thân nhân; nhưng chắc chắn rằng, sau 49 ngày, người chủ lễ sẽ có một cảm giác rằng, chính thân nhân quá cố đó đã giúp cho tôi bước vào đường tu tập lúc nào không hay. Cho nên có lợi cho cả đôi bên, một khi vẫn có lợi cho cả đôi bên thì tại sao không thực hành? Tại sao còn phải đắn đo?

Chuẩn Bị Cho Người Chủ Lễ

Chuẩn bị cho người chủ lễ là một việc vô cùng quan trọng, nếu không chuẩn bị một cách kỹ càng, chu đáo, sẽ khó lòng thuyết phục được vong.
Người chủ lễ có thể là một người biết tu tập, tuy nhiên, một người chưa từng làm quen với việc tu tập, cũng vẫn đảm nhận được việc siêu độ một cách dễ dàng, tốt đẹp.
Người Chủ Lễ Biết Tu Tập
Tu tập nơi đây phải được hiểu là Tu Tập chân chính, có nghĩa là:
·       Luôn luôn kiểm soát TÂM - Ý - TÁNH của mình.
·       Thấu triệt những nguyên tắc căn bản của việc tu tập: Giữ Tâm bình, Giữ Ý không phát khởi, sửa Tánh xấu thành Tánh tốt.
·       Thời khóa tu tập hằng ngày lúc nào cũng phải bao gồm Sám Hối, Trì Chú, Niệm Phật.
·       Đọc Pháp, Hiểu Pháp, Tư Duy Pháp và áp dụng Pháp vào cuộc sống Đời lẫn Đạo.
·       Giữ cho mình một TƯ CÁCH đúng nghĩa của người tu tập.
Một sự tu tập chân chính sẽ mang đến cho hành giả một ánh hào quang bao bọc chung quanh người.
Ánh hào quang này dày hay mỏng, màu sắc thay đổi tùy theo cường độ tu tập cao hay thấp của hành giả.
Người tu tập chân chính lâu năm, hào quang phải phát sáng. Nếu hào quang không phát sáng thì có nghĩa là đường tu tập không đúng lối.
Công năng tu tập qua nhiều ngày tháng sẽ mang đến cho hành giả một Đạo Lực, do ở việc Trì Chú – Niệm Phật.
Nếu một người chủ lễ vừa có được ánh hào quang sáng rực, vừa có được Đạo Lực mạnh mẽ, sẽ tạo nên một uy lực, khiến cho vong nhìn vào sẽ tỏ lòng kính phục và dễ dàng nghe theo lời khuyên bảo của chủ lễ.
Người Chủ Lễ Chưa Biết Tu Tập

Người chưa tu tập bao giờ, nhưng nếu muốn siêu độ cho một vong linh thì họ bắt buộc phải có một Tâm Lực rất… rất cao.
TÂM LỰC là một sức mạnh xuất phát từ TÂM, được kết hợp bởi TỨ VÔ LƯỢNG TÂM. Phải là một người có lòng TỪ - BI - HỶ - XẢ thì mới có thể tạo được một Tâm Lực vững chắc.
Một người chưa biết gì về việc tu tập, nhưng với tất cả tấm lòng, tất cả sự thương yêu trìu mến, sự mong mỏi, sự tha thiết của mình đối với một vong linh, tất cả sự nồng nàn đó góp tạo lại thành một sức mạnh to lớn mang tên là Tâm Lực. Tâm Lực cũng vẫn phát ra được ánh hào quang, nhưng nếu so với ĐẠO LỰC thì yếu hơn nhiều và không được rực rỡ lắm.
Để giúp cho việc Siêu Độ vong linh mang lại một kết quả thật viên mãn, LacPhap.com xin hân hạnh trao tặng cho người hữu duyên một câu Thần Chú.
Nếu là người vừa có ĐẠO LỰC vừa có TÂM LỰC, khi trì câu Chú này, hào quang sẽ rực sáng như vòng lửa bao bọc chung quanh mình.
Nếu một người chỉ có thuần Tâm Lực, câu Chú này sẽ làm cho hào quang của người đó được sáng rực lên (chỉ trong thời gian hành lễ mà thôi).
Nếu muốn được hào quang một cách vĩnh viễn, đúng nghĩa, thì bắt buộc phải thường xuyên tu tập. Câu Chú đó là:
CA SA THA PHA
(Khi trì Chú, hai tay bắt Ấn: Kiết Tường Kim Cang)
Bắt đầu: tay bắt Ấn Kiết Tường
Kế tiếp: xếp 3 ngón xuống trở
thành Ấn Kiết Tường Kim Cang
Description: http://lacphap.com/images/kt.jpg
Description: http://lacphap.com/images/ktkc.jpg
GHI NHỚ
·       Người trì câu Chú này, dù rằng chưa biết tu tập, cũng vẫn phải là một người chân chính.
·       Người theo tà đạo hoặc người có Tâm Không Lành, trì câu Chú này sẽ không mang lại kết quả tốt đẹp. Tâm Lực là một sự kết hợp của Tứ Vô Lượng Tâm xuất phát từ Tâm mà ra, người theo tà đạo hoặc tâm không chân chính thì không thể có một Tâm Lực dũng mãnh được.
·       Suốt trong thời gian 49 ngày siêu độ cho vong linh, chủ lễ có Đạo Lực nên trì thường xuyên câu Chú này (ngoài thời gian hành lễ) để cho hào quang của mình luôn rực sáng.
Người chủ lễ chỉ có Tâm Lực mà thôi, càng cần phải trì câu Chú này thật nhiều, để chắc chắn rằng hào quang của mình luôn phát sáng và khuyên bảo vong sẽ dễ dàng nghe theo.
Siêu độ cho một vong linh cần cái gì? Cần tấm lòng chân thật, cần người chủ lễ siêu độ phải là một người tu tập chân chính, người xuất gia trong cửa Đạo cũng tốt, mà người tại gia ngoài cửa Đạo thì cũng không có gì đáng nói, nơi đâu cũng được, miễn là một người hết dạ chân thành, dốc lòng tu tập và biết nghĩ đến chúng sanh. Nếu là người trong cửa Đạo đảm nhận việc siêu độ, thì người trong cửa Đạo phải xem hết tất cả chúng sanh đều là thân bằng quyến thuộc của mình, để mới có thể đem hết tấm lòng mà siêu độ, hộ niệm cho vong linh bằng Đạo Lực và bằng chính Tâm lực của mình.
Còn người ngoài cửa Đạo cũng vẫn phải đem Đạo Lực của mình (nếu có) kèm theo với Tâm Lực rất mạnh của mình để mà siêu độ cho người thân của mình hoặc là một người mà mình thương mến, mình lo lắng, mình chăm sóc khi họ còn tại thế. Cho nên, dù trong cửa Đạo hay ngoài cửa Đạo, việc siêu độ không phân biệt bất kỳ ai.
Nếu chủ lễ là con Trưởng trong gia đình, hay là Trưởng Tộc trong dòng họ, hoặc bất cứ người nào thuộc về thân nhân của người quá cố, thậm chí là bằng hữu, quen biết, cũng đều được cả. Điều quan trọng chính là sự chân thành của người chủ lễ. Nếu người chủ lễ đảm nhận việc siêu độ nhưng không đem hết dạ chân thành của mình, sự mong mỏi của mình để giúp cho vong linh được siêu thoát, thì việc đó sẽ không mang đến một kết quả nào cả, dù trong cửa Đạo hay ngoài cửa Đạo cũng vậy thôi!
Cho nên phải nhớ kỹ một điều là, Đạo Lực cộng với Tâm Lực mới có thể giúp được cho vong linh siêu thoát. Có Đạo Lực mà không có Tâm Lực thì không thể nào làm việc có kết quả được; nhưng nếu chỉ có một Tâm Lực thôi, nhưng một Tâm Lực rất cao thì kết quả tốt đẹp vẫn có thể đạt được như thường.

Những Điều Kiện Cho Người Chủ Lễ

Người chủ lễ phải đạt một vài điều kiện sau đây để cho tư cách của mình gia tăng lên, như vậy thì việc mình hướng dẫn một vong linh mới đến nơi đến chốn, không mất thì giờ và tạo nên được công đức.

1. Phải Trường Chay Trong 49 Ngày:

Khi người chủ lễ tại gia đứng ra siêu độ cho một vong linh, người đó bắt buộc phải Trường Chay trong suốt thời gian làm lễ (49 ngày). Phải chịu khó dùng những thức ăn thanh, đừng dùng những thức ăn nặng, vì những thức ăn thanh dễ dàng giúp cho ánh hào quang của câu Chú được phát sáng và lời niệm Phật được phát sáng. Nếu không trường chay thì rất khó lòng nói để cho vong nghe lắm. Người đời không nhìn thấy được những gì xa hơn tầm mắt của họ, cho nên không nhận ra được sự thán phục của vong, hay sự hờ hững của vong đối với người chủ lễ. Vì vậy, người chủ lễ muốn nói cho vong nghe thì phải có đủ tư cách. Trên dương thế, một người muốn cho kẻ khác nghe mình, theo mình, làm theo những gì mình muốn, đều bắt buộc phải có tư cách và phải có uy, thì mới có thể lôi kéo được kẻ khác theo mình.

2. Thọ Trì Tam Quy và Giữ Ngũ Giới:

Người trong cửa Đạo (xuất gia) thì đương nhiên là đã thọ trì Tam Quy và giữ Ngũ Giới (giữ còn nhiều hơn 5 giới nữa). Tuy nhiên, nếu người trong cửa Đạo làm những chuyện sái quấy, phạm giới thì khó lòng siêu độ cho vong linh vì người đó thiếu cái uy nghiêm khiến cho vong không nghe theo lời khuyên bảo.
Người tại gia, tu tập chân chính, việc thọ Tam Quy, trì ngũ giới là việc đương nhiên.
Người chưa từng tu tập, làm chủ lễ với tất cả Tâm Lực của mình, trong thời gian 49 ngày phải phát nguyện thọ trì Tam Quy và giữ ngũ giới, để cho người đó được nhẹ nhàng, không tạo cơ hội cho một nghiệp chướng xảy ra. Chính bản thân người đó đã mang nghiệp chướng rồi, bây giờ trong suốt 49 ngày, lại mang thêm hết nghiệp chướng này đến nghiệp chướng khác, như vậy rất là nặng trĩu. Tự bản thân của họ đã đeo đá nặng rồi, thì khó lòng có thể khuyên bảo ai được nữa, cho nên tối thiểu cũng phải làm “NHẸ” người của mình trong suốt 49 ngày, để cho hào quang được phát sáng. Dù rằng hào quang đó tạm thời phát sáng trong thời gian mình dẫn dắt vong, cũng vẫn phải làm cho người mình được nhẹ nhàng. Nếu người mình không nhẹ nhàng, thì hào quang từ câu Chú CA SA THA PHA cũng vẫn không thể giúp cho mình phát sáng hào quang được đâu.
Sau thời gian siêu độ, nếu người đó muốn tiếp tục giữ Tam Quy Ngũ Giới thì rất tốt, còn không muốn tiếp tục thì cũng không sao.
Tuy nhiên nếu người đó vẫn tiếp tục tu tập, và trong quá trình tu tập, họ hồi hướng cho bản thân họ được thân tâm chánh niệm, cho oan gia của họ, cho nghiệp chướng của họ được tiêu trừ để giải những món nợ đối với oan gia của họ, rồi họ cũng hồi hướng cho thân nhân đã quá cố mà họ đã giúp cho siêu độ, như vậy là một chuyện quá sức tốt! Có thể nói rằng: chính nhờ vào vong linh đó, mà người chủ lễ có cơ hội bước vào đường tu tập.
Nghi Thức Thọ Tam Quy và Giữ Ngũ Giới Cho Người Chưa Biết Tu Tập
Người chưa hề thọ Tam Quy, trì Ngũ Giới, nếu làm chủ lễ siêu độ cho vong linh thì phải theo nghi thức sau đây:
Trong buổi lễ đầu tiên, trước khi bắt tay hành lễ, người chủ lễ thắp hương đứng trước bàn thờ Phật, khấn nguyện như sau:

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. o (1 lạy)
Con tên là ____, ngày hôm nay con xin đem hết Tâm Lực của mình để làm chủ lễ siêu độ cho thân nhân của con vừa mới qua đời, hương linh tên là ____, Pháp danh ____, sanh ngày____, mất ngày____.
Cúi xin chư Phật và Bồ Tát chứng minh cho con:
·       Thành tâm Quy Y Phật o (1 lạy)
·       Thành tâm Quy Y Pháp o (1 lạy)
·       Thành tâm Quy Y Tăng o (1 lạy)
Con cũng xin phát nguyện giữ Ngũ Giới:
·       Con nguyện Không Sát Sanh
·       Con nguyện Không Trộm Cắp
·       Con nguyện Không Tà Dâm
·       Con nguyện Không Nói Láo
·       Con nguyện Không Uống Rượu
Và con nguyện trường chay trong suốt 49 ngày hành trì lễ siêu độ. Con cầu xin thân tâm nhẹ nhàng, thơ thới, có đủ uy lực để dẫn dắt, hướng dẫn cho vong linh thoát được những vướng mắc, tìm được đúng hướng đi của mình để thác sanh.
Nam mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát, tác đại chứng minh. o (1 lạy)

Trong suốt 49 ngày, trước khi bắt đầu hành lễ, người chủ lễ này đều phải luôn luôn khấn nguyện:
Con tên là ____ ngày hôm nay con vì hương linh, phát nguyện thọ Tam Quy, trì Ngũ Giới, giữ trường chay, tu tập, giữ cho thân tâm luôn được thanh tịnh.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát Ma Ha Tát. o (1 lạy)
Sau đó thì trì câu Chú CA SA THA PHA trong 15 phút trước khi bắt đầu hành lễ. Nên giữ tâm thanh tịnh lúc trì Chú, có nghĩa là tránh Tâm Viên Ý Mã, quán tưởng hào quang rực sáng chung quanh mình.

Làm Một Thiện Tri Thức Cho Vong Linh
Trên dương thế, người Thiện tri thức là người giúp đỡ, dẫn dắt cho một chúng sanh từ đường tối bước ra đường sáng, từ vũng bùn lầy bước ra chỗ đất khô ráo. Vai trò của người Thiện tri thức là dẫn dắt một chúng sanh từ thấp tiến lên cao. Công việc đó bao gồm rất nhiều điều mà một người Thiện tri thức phải chu toàn trong khi hành sử vai trò của mình. Đưa một chúng sanh từ bờ Mê ra bến Giác không phải là một việc búng tay, cũng không phải là một việc chỉ “một ngày một bữa.” Đó là một công việc có khi kéo dài cả hàng tháng, hàng năm hay nhiều năm. Cho nên người Thiện tri thức phải đặt rất nhiều chữ NHẪN ở trong công việc của mình.
Chữ Nhẫn là một đức tánh vô cùng quan trọng trong đường Đời lẫn đường Đạo. Đường Đời thiếu chữ Nhẫn, không thể có sự thành công được. Đường Đạo thiếu chữ Nhẫn, thì không thể nào tiến đến Bờ Giác được. Cho nên, người thiện tri thức hành sử vai trò của mình rất là cực nhọc. Đó là nói về chúng sanh còn trên dương thế.
Đối với một chúng sanh mà chỉ còn là một thần thức thôi, thì sự Nhẫn Nại của người chủ lễ sẽ nhiều gấp bội phần. Có đôi lúc, thần thức đó, vong linh đó, không hiểu gì hết, cần phải cắt nghĩa, cần phải chỉ dẫn từng bước một. Do đó, phải nhẫn nại rất nhiều.
Điều quan trọng là, phải tìm hiểu về vong linh đó, trước khi đảm nhiệm việc siêu độ cho vong linh. Nếu không biết gì về vong linh, thì sẽ khó lòng dẫn dắt cho vong linh đi đúng đường được. Phải nghĩ rằng: nếu một người đang khát nước mà cứ cho họ ăn, thì họ sẽ không thể nào tiếp tục ăn được, hay ngược lại, nếu một kẻ đang muốn ăn mà không cho ăn, cứ cho uống nước đầy bụng thì phải tới lúc người đó ói ra nước. Cho nên, đối với vong linh cũng thế, phải tìm hiểu rất là cặn kẽ những uẩn khúc của vong linh, tánh tình của vong linh, vì tất cả những nghiệp chướng mà vong linh đã tạo ra, đều liên quan mật thiết với cái Tánh của vong linh khi còn sống. Vì vậy, nếu không hiểu rõ vấn đề đó, thì rất khó lòng giúp cho vong linh thoát được nghiệp chướng của mình.
Nếu một vong linh đã trả xong nghiệp chướng của mình, đã giải tỏa hết tất cả những điều uẩn khúc của mình, thì vong linh không cần người siêu độ nữa, họ đã tự động ra đi rồi.
Khi vong linh vẫn còn vương vấn những uẩn khúc trong lòng, nghiệp chướng bề bề chưa phân giải được, thì bắt buộc người chủ lễ phải hiểu rõ để giúp cho vong linh giải trừ những khúc mắc. Vì vậy, vai trò của người chủ lễ không phải đơn giản đâu! Cần phải nghiên cứu rất nhiều trước khi ngồi xuống cùng với vong linh hành lễ.

Làm sao biết được vong linh nào đã siêu thoát ra đi và vong linh nào chưa siêu thoát?

Nếu người chủ lễ không có mặt vào giờ phút lâm chung của người quá cố, thì cần phải hỏi thân nhân của người này để biết tướng trạng trên gương mặt của người đã qua đời như thế nào.
Nếu người này ra đi với bộ mặt rất là thanh thoát, thoải mái, hơi ấm cuối cùng tụ vào từ ngực trở lên thì việc siêu độ cho người đó không cần phải tốn quá nhiều công sức.
Còn nếu người đó có những ác tướng hiện lên nơi mặt, có nghĩa là người này đã bị vướng mắc rất là nhiều, không siêu thoát được.[1] Như vậy, phải nghiên cứu những khúc mắc của người này để giúp cho họ có thể thoát được Tam Đồ mà đi về đến cõi Người.
Việc nghiên cứu một người chưa siêu thoát không khác gì công việc của một Bác Sĩ. Muốn trị bịnh cho bịnh nhân, cần phải lập hồ sơ Bịnh Án của từng bịnh nhân. Vị Bác Sĩ phải hiểu rõ bịnh nhân này có căn bịnh gì? Nguồn gốc căn bịnh xuất phát từ đâu? Việc trị bịnh gồm phương cách gì? Dùng các loại thuốc nào? v.v…
Người chủ lễ phải tìm hiểu thật cặn kẽ những lý do của từng ác tướng hiện trên nét mặt của người quá cố.
Hiểu được rõ ràng căn nguyên, cội rễ mới có thể giải thích, khuyên bảo để cho vong linh xả bỏ những ẩn ức, những đau buồn, sân hận v.v…
Nếu một người đã qua đời được 1, 2 tiếng đồng hồ rồi, thân xác bắt đầu lạnh dần, khi sờ vào cảm nhận được hơi ấm cuối cùng tụ vào hoặc trán, hoặc đỉnh đầu, có nghĩa rằng người đó đã được tiếp rước hoặc về cõi Trời (hơi ấm cuối cùng tụ ở trán), hoặc về cõi Phật (hơi ấm cuối cùng tụ ở đỉnh đầu). Việc siêu độ sẽ không cần thiết.
Hơi ấm tụ vào từ ngực trở xuống cần phải siêu độ. Dù rằng ở nơi ngực, tức là trở lại cảnh giới Người, nhưng vẫn bị chi phối trong hạn 49 ngày. Thời gian 49 ngày là thời gian đặc ân; nếu người đó được trở về cảnh giới Người, nhưng trong suốt 49 ngày, nếu người chủ lễ giúp cho họ biết ăn năn sám hối thêm, biết niệm Phật, nói tóm lại, là biết tu tập, biết xả bỏ hết tất cả những vướng mắc, thì có thể hoán chuyển từ cảnh giới Người lên đến cảnh giới Trời hay cảnh giới Phật, tùy ở sức giúp của người chủ lễ và tùy ở độ tiếp nhận của vong linh.
Nếu tới ngày thứ 49 mà thần thức có một sự tiến bộ vượt bực, và theo ước muốn của thần thức (chớ không phải ước muốn của người chủ lễ), thần thức sẽ được tiếp dẫn lên cõi Trời hay cõi Phật. Nếu không đủ duyên lành để lên cõi Trời hay cõi Phật, thần thức sẽ được trở lại làm Người, ở một hoàn cảnh khá hơn, ở một đẳng cấp cao hơn.
Người chủ lễ tu tập chân chính sẽ có được một cảm giác và cảm giác đó sẽ rất là tinh tế. Vì vậy, khi làm chủ lễ phải rất là ĐỊNH để có thể lắng nghe hoặc là giao cảm được với vong linh. Điều này rất khó, không phải dễ, tuy nhiên đoạn đường mình cất bước, dù rằng đầy chông gai, hầm hố, không có nghĩa rằng mình không có cách để khắc phục nó mà tiến lên.
Giúp đỡ một chúng sanh còn trên dương thế, đưa họ từ đường tối bước ra đường sáng, đã là một việc vô cùng phức tạp và đòi hỏi nhiều nhẫn nại, nhiều tế nhị. Vong linh cũng là một chúng sanh, nhưng không còn có mặt ở Cõi Đời nữa. Họ tạm thời vắng mặt, để sửa soạn khoác lên người một chiếc áo mới.
Người chủ lễ có bổn phận phải giúp cho vong linh lựa chọn một chiếc áo vừa vặn, tốt đẹp, để đến khi vong linh sẵn sàng bước vào cuộc đời mới, Chiếc Áo Mới này sẽ giúp cho vong linh gây tạo một sự chú ý đáng kể.
Dù đã bước vào đường tu tập, hay chưa bước vào đường tu tập, cũng nên thực tập chữ Bình, để đến khi có việc cần đem ra sử dụng, sẽ đem đến một kết quả liền tức khắc. Nếu đợi đến phút cuối thì khó lòng giữ được Tâm Bình.
Hãy ghi nhớ một điều quan trọng là: nhận lời làm chủ lễ siêu độ cho một vong linh, cần phải hiểu thật rõ ràng “bệnh án của bệnh nhân”.
Nếu nhận lời mà không biết gì về nguồn gốc, ngọn ngành của vong linh, sẽ khó lòng mang đến một kết quả tốt đẹp được.
Việc siêu độ cho một vong linh, trên nguyên tắc phải liên tục trong 49 ngày, vì đó là “thời gian đặc ân.” Vong linh rất cần được nghe Pháp; vong bị vướng mắc, không siêu thoát được, cũng chỉ vì chưa giải tỏa được điều uẩn khúc trong lòng trước khi nhắm mắt lìa đời. Cũng có khi vì một sự hiểu sai, hiểu lầm, hiểu chưa thấu đáo mà vong vô tình bị vướng vào một nghiệp chướng.
Nhờ sự giúp đỡ của chủ lễ trong việc giải thích, giảng dạy, chỉ dẫn để vong nhận ra điều sai trái, vong tỉnh ngộ, và nhẹ nhàng cất bước.
Trong việc siêu độ, điều cần thiết và chánh yếu không phải là vật thực (thức ăn) mà chính là Pháp­­ Thực. Vong linh cần phải được nghe Pháp, được nói đi nói lại rất nhiều lần, gần như là tỉ tê, để cho vong có thể tiếp nhận được.
Vong linh và người còn sống khác biệt nhau ở chỗ nào?
·       Người còn sống khi nói lên một điều gì là họ tiếp nhận ngay, chỉ trừ khi họ bướng bỉnh thì họ từ chối không nghe.
·       Còn vong linh phải lặp đi, lặp lại nhiều lần vì họ không còn ngũ căn, do đó, một khi họ đã cảm nhận được rồi thì thần thức tức khắc rung động, mọi việc được chuyển hóa ngay tức khắc. Cho nên cần phải có sự kiên trì, nhẫn nại để tỉ tê nói cho thần thức nghe.
·       [1] Ác tướng: diễn tả vẻ mặt không thoải mái của một người khi hắt hơi cuối cùng. Vẻ mặt đó có thể là: sợ sệt, nuối tiếc, lo âu, đau khổ, đau đớn, buồn bả, sân hận, v.v...

Sau Lễ An Táng

Thời gian 49 ngày có thể chia ra làm 7 thất (tức là 7 tuần). Ngày tử được kể là ngày thứ nhất, từ đó tính đến 49 ngày – và phân ra làm 7 tuần.
Sau lễ an táng, vong có thể được:
1.    Đưa về chùa
2.    Hoặc đưa về nhà

Đưa Vong Về Chùa

Thông thường, nhà chùa chỉ nhận lời siêu độ cho vong trong 7 thất, tức là mỗi tuần, nhà chùa sẽ có lễ cầu siêu cho vong một lần. Lễ siêu độ sẽ hoàn tất ở tuần thứ 7 (tổng cộng có 7 lần hành lễ siêu độ cho vong ở chùa). Nếu đã đưa vong về chùa rồi, mà thân nhân vẫn muốn hành trì lễ siêu độ cho vong ở tại nhà, thì sẽ theo cách thức như sau:
·       Lập bàn thờ vong ở tại nhà
·       Chỉ để hình của vong hay bài vị trên bàn thờ vong - không làm nghi thức cho vong nhập vị (vì vong đã nhập vị ở chùa rồi)
·       Cũng không thỉnh hai vị Hộ Pháp để bảo vệ cho vong
·       Vị chủ lễ vẫn hành trì nghi thức siêu độ mỗi ngày gồm sám hối, trì Chú, niệm Phật và giảng Pháp. Không cần cúng cơm mỗi ngày vì nhà chùa đã lo phần này rồi. Mỗi tuần một lần cúng cơm (ở chùa).
·       Quan trọng là: Khi hành lễ, vị chủ lễ phải thành tâm quán tưởng (tưởng tượng hình ảnh của vong) vong đang ở trước mặt, cùng với mình hành lễ. Không có phần triệu thỉnh vong. Việc giảng Pháp cũng như thế, phải quán tưởng vong đang mặt đối mặt với người chủ lễ để nghe Pháp.
Dù rằng vong đang ở chùa, vẫn cảm nhận được hết những gì mà người chủ lễ thành tâm siêu độ cho vong.
Khi vong linh sám hối người chủ lễ phải nói rằng:
“Vong linh tên _____, Pháp danh ____, mất ngày ____, đang ở tại Chùa(tên và địa chỉ) ____, hãy cùng với chủ lễ hành trì nghi thức sám hối.”
Đến giai đoạn trì Chú hay niệm Phật, chủ lễ cũng phải xướng lên như vậy:
“Vong linh đang ở tại chùa (tên và địa chỉ) ____ hãy cùng với chủ lễ trìChú (hay niệm Phật).”
Sau mỗi khóa lễ, chủ lễ phải khấn với Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát rằng:
“Vong linh tên ____, mất ngày _____, đang ở tại chùa (tên và địa chỉ)_____. Cầu xin Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giúp đỡ để cho vong linh ở tại chùa ____ được tu tập.”
Có lời khấn với Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, Ngài sẽ đặc biệt theo dõi vong linh đó, để xem vong linh đó tu tập như thế nào. Chỉ có Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát mới có thể thẩm định được sự tu tập, sự tiến triển của vong linh mà thôi, để rồi cuối cùng mới có thể quyết định được vong linh sẽ thác sinh về đâu.
Ngày thứ 49, trong lúc chùa hành lễ, người chủ lễ cũng hành lễ ở tại nhà vào giờ giấc đó. Sau khi chấm dứt khóa lễ, chủ lễ cũng sẽ khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, nhờ Ngài thẩm định xem việc tu tập của vong linh ở tại chùa như thế nào, và nhờ Ngài sắp xếp giùm để tiễn vong linh đi, theo đúng cảnh giới của vong linh.
Điều này đòi hỏi người chủ lễ phải luôn luôn giữ trạng thái Bình và phải nghĩ tưởng đến vong linh rất rõ ràng trong lúc khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát. Người chủ lễ sẽ phải đem hết sức lực của mình để giúp đỡ cho vong linh ở tại chùa, phải có một sự giao cảm giữa vong linh và người chủ lễ, thì người chủ lễ mới có thể giúp được cho vong linh ở tại chùa.
Do đó, nếu đã có ý muốn siêu độ cho thân nhân, thì nên đưa vong về nhà, mọi việc sẽ ở trong tầm tay của mình, sự giao cảm cũng sẽ dễ dàng hơn.

Đưa Vong Về Nhà

Cách thức sẽ như sau:
1.    Lập bàn thờ vong
2.    Thỉnh vong về nhà
3.    Thỉnh Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giúp cho vong nhập vị
4.    Thỉnh hai vị Hộ Pháp để bảo vệ vong
5.    Hành trì nghi thức siêu độ mỗi ngày cùng với vong, liên tục trong 49 ngày. Cúng cơm mỗi ngày. Nếu gia chủ quá bận rộn thì cúng cơm mỗi tuần.
6.    Sau phần nghi thức siêu độ là phần giảng Pháp
7.    Ngày thứ 49, sau phần nghi thức siêu độ, thỉnh Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát để tiễn vong.
8.    Sau đó tiễn hai vị Hộ Pháp
9.    Việc siêu độ cho vong đã hoàn tất.
Hai vị Hộ Pháp này không phải là Hộ Pháp Già Lam đâu. Hộ Pháp Già Lam là Hộ Pháp ở trong chùa để bảo vệ kinh sách. Hai vị Hộ Pháp nơi đây, do sự yêu cầu của chủ lễ nên có mặt để bảo vệ cho vong. Vì vong hoàn toàn mới với Cõi Âm, cho nên, để tránh những việc đáng tiếc xảy ra có hại cho vong linh, mới có việc hai vị Hộ Pháp đi theo để bảo vệ cho vong linh. Hai vị này đóng vai trò tương tự như hai vị cảnh sát của cõi dương vậy. Hai vị này bảo vệ cho vong tránh gặp kẻ xấu. Kẻ xấu đó chính là những vong linh ở tại Cõi Âm từ rất lâu, không siêu thoát được. Người mới mất, vong linh còn yếu, do đó dễ bị kẻ xấu ăn hiếp, vì vậy, có hai vị Hộ Pháp, do theo lời yêu cầu của chủ lễ, bảo vệ cho vong trong thời gian 49 ngày. Sau 49 ngày, vong linh về đúng cảnh giới của mình rồi, hai vị Hộ Pháp cũng chấm dứt nhiệm vụ bảo vệ cho vong linh.

Tâm Trạng Của Người Chủ Lễ Ảnh Hưởng Đến Vong Linh

Trong suốt 49 ngày, muốn cho việc siêu độ mang lại kết quả tốt đẹp thật sự, người chủ lễ phải giữ Tâm Bình, tránh phiền não hay lo lắng, sân hận, tránh tất cả những gì có liên quan đến Tâm – Ý – Tánh. Như vậy mới có thể giữ cho hào quang của người chủ lễ không bị phai mờ; hào quang không phai mờ thì vong mới kính phục được, mới nghe theo lời của chủ lễ chỉ dạy.
Khi đảm nhận trách nhiệm giúp siêu độ cho vong linh, người chủ lễtuyệt đối không được buồn rầu thương nhớ, vật vã khóc than sự ly biệt với người thân của mình.
Đã là người biết tu tập thì phải hiểu rằng, tất cả những tình cảm đó đều là KHÔNG. Cho nên, tự họ phải biết buông bỏ những đau khổ khi bị mất mát. Những sự đau thương, chia lìa, những tình cảm ủy mị, khóc thương, người tu tập chân chính phải biết tiết giảm, phải nhận chân ra được một cách đương nhiên là, có sanh thì có tử, có hợp thì có tan, có gặp gỡ thì có chia xa, cho nên không có gì để phải đau buồn, khóc hận.
Nếu đứng ra siêu độ cho một vong linh mà ngập tràn nước mắt, làm sao giữ được Tâm Bình? Không giữ được tâm bình, sẽ không giữ được sự rực sáng của ánh hào quang, mà hào quang không rực sáng, sẽ khó lòng dẫn dắt vong đi đúng đường được. Phải ghi nhớ các câu hỏi vô cùng quan trọng sau đây:
·       Mình làm sao để tỏ lòng thương yêu của mình đến thân nhân quá cố?
Phải giúp cho họ được thăng hoa.
·       Muốn cho họ được thăng hoa, mình phải làm như thế nào?
Phải kiên trì và hành sử cho thật đúng việc siêu độ.
Thần thức của thân nhân mình có rung động được thì việc siêu thoát, việc thăng hoa mới có thể có kết quả tốt đẹp được.
Thương yêu thân nhân, tưởng nhớ đến thân nhân không phải bằng nước mắt, bằng sự vật vã, khóc than, kêu gào. Tất cả những hành động đó không đem lại điều lợi ích, mà trái lại, đẩy mình và thân nhân của mình càng đi ngược chiều, không tiến gần lại được để mà cứu giúp.
Chuẩn Bị Cho Hương Linh
Lập Bàn Thờ Phật

Tại sao có việc lập bàn thờ? Chẳng qua là vì giúp cho chúng sanh dễ dàng quán tưởng. Nếu chúng sanh nào có thể quán tưởng dễ dàng, thì cũng không cần phải lập một bàn thờ.
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã giới thiệu đến chúng sanh của cõi Ta Bà về Đức A Di Đà Phật, vị giáo chủ của cõi Tây Phương Cực Lạc. Vị Phật này đã có lời thệ nguyện, là sẽ tiếp độ chúng sanh của cõi Ta Bà, nếu chúng sanh đó thật tâm muốn về cõi Cực Lạc của Ngài.
Chúng sanh nơi cõi Ta Bà đã ví Ngài như một Từ Phụ và cảm thấy rất gần gũi với Ngài. Người đời đã họa hình của Đức A Di Đà Phật và cũng họa hình của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cùng Đức Đại Thế Chí Bồ Tát. Hai vị Đại Bồ Tát này là cánh tay Phải và cánh tay Trái của Đức A Di Đà Phật, trong công việc tiếp độ chúng sanh.
Cho nên, cõi Tây Phương Cực Lạc được thể hiện qua hình tượng của 3 vị: Đức A Di Đà Phật, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và Đức Đại Thế Chí Bồ Tát, được gọi một cách trang trọng là Tây Phương Tam Thánh.
Vị giáo chủ của cõi Ta Bà là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Một người bước vào việc tu tập, không thể nào quên được Đấng Cha Lành của mình chính là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Cho nên, vị Phật chánh yếu phải tôn thờ và quán tưởng trong lúc tu tập, chính là Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đức A Di Đà Phật cùng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát là biểu tượng của Thế Giới Cực Lạc mà chúng sanh muốn được an trụ sau khi bỏ xác thân. Vì vậy, phải luôn luôn có sự đi đôi giữa hình tượng của Đức Bổn sư và cả ba vị của cõi Cực Lạc.
Ngoài ra, nếu hành giả muốn thờ thêm bất kỳ một vị Phật nào, một vị Bồ Tát nào cũng đều được cả, tùy ở lòng thành tâm của hành giả đó. Việc lập bàn thờ là một việc tùy Tâm, tùy Hỷ, không bắt buộc; tuy nhiên, cũng là điều lợi ích, vì đó là một sự nhắc nhở từng giờ, từng phút, từng giây; từng ngày, từng tháng, từng năm cho hành giả luôn nhớ đến con đường mình đang đi và mục đích của mình trong việc tu tập. Nó cũng nhắc nhở cho mình hiểu, phải tu tập như thế nào để không bị lạc lối, để an toàn đến được bến bờ.
Việc bài trí, trang hoàng, tùy vào tầm nhìn, tùy theo quan niệm của mỗi người. Tuy nhiên, tất cả mọi thứ như Tâm của mình, luôn luôn bình dị, thì chữ Bình mới ở mãi trong Tâm; đừng gây nhiều rắc rối, đừng gây nhiều phức tạp, sẽ khiến cho mình dễ bị vướng mắc.
Description: http://lacphap.com/images/ban-tho-phat.jpg



Lập Bàn Thờ Vong

1. Bàn thờ vong phải đặt một nơi cách xa bàn thờ Phật. Tại sao? Bàn thờ Phật là nơi mà hành giả đến tu tập mỗi ngày. Công năng của việc trì Chú, niệm Phật giúp cho hành giả có được một đạo lực. Đạo Lực này sẽ tỏa ra ánh hào quang, bao trùm Đạo Tràng mỗi khi hành giả ngồi vào tu tập.
Đó là chưa kể, nếu có thiện duyên, sẽ có những vị như Chư Thiên, Chư Thánh, Chư Thần sở tại, nơi vùng đất của hành giả ở, hoặc Hộ Pháp Già Lam, v.v… cùng đến tu tập chung.
Nếu hành giả là một người tu tập chân chánh thì sẽ được sự ủng hộ của các vị này. Cho nên khi tu tập, phải thận trọng rất nhiều, phải giữ gìn tư cách, giữ oai nghi của mình, vì không phải chỉ có riêng mình ngồi tu đâu!
Vong linh vì không còn bị vướng bận bởi ngũ căn nữa, nên có thể nhìn thấu suốt tất cả. Vì vậy vong rất sợ hãi, không dám bén mảng đến Bàn thờ Phật. Do đó mà phải lập một bàn thờ riêng cho vong.
2. Muốn cho vong luôn trụ ở trong nhà trong suốt 49 ngày, khi cho vong nhập vị phải nói với vong rằng: “Hương linh ở tại nơi đây và không đi lẩn quẩn trong nhà, không được ra khỏi bài vị, chỉ khi nào có lời triệu thỉnh vong ra để nhận thức ăn hay cùng tu tập thì vong mới được ra.” Khi thời khóa tu đã chấm dứt, thì phải tiễn vong vào bài vị, vong sẽ an trụ nơi đó để lúc nào cũng nghe câu niệm Phật.
3. Khi cho vong nhập vị rồi (tức là ở trong bài vị), người chủ lễ sẽ thỉnh hai Vị Hộ Pháp để trông coi vong, không cho phép vong được tự do xuất nhập. Thật ra vong cũng không thể tự do xuất nhập, nếu không có lời mời gọi của vị chủ lễ, nhưng hai Vị Hộ Pháp đó cũng vẫn được thỉnh để giữ Vong trong suốt 49 ngày. Đó là hai Vị Hộ Pháp đặc biệt chỉ để canh giữ vong, chỉ cần người chủ lễ khởi tâm cầu nguyện là hai Vị Hộ Pháp đó sẽ xuất hiện và giữ sát vong, cho nên vong không thể nào đi loanh quanh trong nhà được, trong suốt 49 ngày.
Description: http://lacphap.com/images/ban-tho-vong.jpgNên sử dụng loại đèn cầy như trong hình để có thể thắp sáng trong suốt 49 ngày.
4. Nếu không cho vong nhập vị thì chỉ thỉnh vong về trong lúc làm lễ, rồi thì tiễn vong đi. Khi tiễn vong đi, vong sẽ bước ra khỏi nhà và cũng không thể nào tự ý quay trở lại, vì Sơn Thần, Thổ Địa nơi đó không cho phép; chỉ trừ một vài trường hợp rất là đặc biệt, do một nghiệp chướng nào đó, khiến cho vong vào trong nhà của một người, nhưng việc đó cũng rất ít xảy ra.
Khi không cho vong nhập vị, cũng là một điều bất lợi, vong sẽ không chú tâm một cách hoàn toàn vào việc tu tập, vì không có nhà để ở, cái bài vị được xem như là căn nhà của vong linh!
Do đó, nếu người chủ lễ hoặc những người trong gia đình hiểu thấu đáo việc tu tập, thì nên để cho vong nhập vị, giúp cho vong có đủ thì giờ trong suốt 49 ngày, làm đúng những điều mà người chủ lễ hướng dẫn cho vong. Vong đi lang thang cũng khó lòng mà Định được và làm đúng hoàn toàn những điều chỉ dẫn của chủ lễ.
5. Nếu có nhiều người ở nhiều nơi khác nhau, cùng phát tâm thành siêu độ cho chỉ một người, mỗi người đều lập bàn thờ vong, theo nguyên tắc, cần phải có sự thống nhất giữa mọi người là vong sẽ trụ ở đâu?
Tuy là vong trụ lại ở một nơi nào đó, nhưng nếu tất cả mọi người đều hành lễ, đều dốc tâm siêu độ, vong vẫn cảm nhận được như thường. Dù rằng bên kia có cho vong ăn - mà ở nơi này vong đang nghe Pháp, vong vẫn cảm nhận được thức ăn từ ở nơi người bên kia dâng cúng. Cho nên không cần phải di chuyển đi đâu cả.
Chủ lễ nào giảng Pháp hay nói bất kỳ điều gì với vong, vong đều hiểu, đều cảm nhận được hết. Một điều cần phải ghi nhớ là: tất cả mọi thứ phải từ ở Tâm Thành mà ra thì mới có thể giao cảm được với vong, còn làm cho lấy có, lấy lệ, không do một tâm thành, sẽ không có sự cảm nhận của vong đâu!
Nếu cảm thấy mình không hết dạ chân thành, đừng nên đứng ra siêu độ cho vong linh, vì như vậy sẽ mất nhiều thì giờ, mà không đem lại kết quả gì cả, nếu không muốn nói rằng, làm cho vong thất vọng, và không đặt được một niềm tin nơi người chủ lễ.
Cốt yếu của việc làm chủ lễ là để giúp siêu độ cho một vong linh, không phải vì danh, không phải vì tiếng, cũng không phải vì bất cứ lợi lạc nào cả, mà phải vì một cái tâm chân thành và tha thiết.

Lập Bài Vị Cho Vong Linh
Việc lập bài vị cho vong linh, phải theo cách thức như sau:
Nếu có hình ảnh thì để hình ảnh của hương linh vào khuôn hình, kèm theo chi tiết: tên, họ, Pháp danh (nếu có), ngày sanh, ngày mất, tuổi (hưởng thọ hoặc hưởng dương). Nếu vị chủ lễ không phải là thân nhân của người quá cố, những chi tiết này sẽ giúp cho người đó không bị lúng túng khi triệu thỉnh vong.
Nếu không có hình ảnh thì ghi tên họ, Pháp danh (nếu có), ngày sanh, ngày mất, tuổi (hưởng thọ hoặc hưởng dương) v.v… lên một miếng giấy, cắt cho vừa khuôn hình và để vào.
Cách Thức Cho Vong Nhập Vị
1.    Chủ lễ đứng trước bàn thờ vong
2.    Khuôn hình hoặc bài vị đã sẵn sàng trên bàn thờ vong
3.    Chủ lễ đánh 3 tiếng chuông, chấp tay niệm:
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (3 lần)
4.    Chủ lễ khấn:
Con tên là ________, xin đem hết Tâm Thành, Tâm Lực làm chủ lễ giúp siêu độ cho Hương Linh tên ________, Pháp danh (nếu có) ________, sanh ngày____ mất ngày____ hưởng thọ ___ tuổi.

Cúi lạy Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giúp cho Hương Linh nhập vị.
Chủ lễ (vẫn còn chấp tay trước ngực) quán tưởng hương linh ở trước mặt, vừa lớn tiếng kêu lên:
Hương Linh tên ________ nhập vị!
Vừa vung thẳng tay (đang chấp lại), chỉa thẳng vào khuôn hình, hơi hất nhẹ bàn tay lên.
Chú ý: Trước khi thật sự cho hương linh nhập vị, chủ lễ nên thực tập động tác này, (nhớ khoan quán tưởng), để cho thuần thục, tiếng kêu phải mạnh mẽ, cứng rắn, động tác chắc chắn và gọn.
Ngay sau đó, vị chủ lễ khấn hai Vị Hộ Pháp để bảo vệ cho vong. Chỉ cần khấn như sau:
Con tên ____, nhận làm chủ lễ để siêu độ cho vong linh tên ____, sanh ngày ____, mất ngày ____. Con đã cho hương linh nhập vị rồi, cầu mong hai vị Hộ Pháp hiện diện để bảo hộ cho vong linh.
Tức khắc sẽ có hai Vị Hộ Pháp đến ngay.
Khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát
Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp siêu độ cho hương linh.
Sau lễ an táng, ngay khi dẫn vong về nhà, người chủ lễ đã phải khấn Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát để nhờ Ngài giúp cho hương linh nhập vị.
Mỗi ngày trong mỗi thất, mở đầu nghi thức cúng vong, đều phải thỉnh Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Ở thất thứ bảy, vào ngày thứ 49, phải có lời cầu nguyện của người chủ lễ đến Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát; chỉ có Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát mới thẩm định được, hương linh có đủ tư cách để đi về cõi Phật hay về cõi Trời hoặc về cõi Người. Vì vậy, người chủ lễ phải thành tâm cầu nguyện Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, để Ngài sắp xếp và giúp đỡ cho hương linh được thác sanh theo đúng cảnh giới của mình.
Thời gian 49 ngày là thời gian chuyển đổi, hoán chuyển tâm của một hương linh. Có thể nói rằng, ở thất thứ nhất, hương linh chưa có ý niệm về cõi Trời hay cõi Cực Lạc, nhưng nhờ sự hướng dẫn, giải thích của người chủ lễ mà hương linh giác ngộ và chí tâm tu tập. Chính Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát là người thẩm định được sự chuyển hóa của thần thức, để có thể tiễn thần thức đi về đúng cảnh giới của họ. Người chủ lễ phải hiểu rất rõ việc này, vì người chủ lễ không thể thẩm định được việc tu tập của hương linh như thế nào, chỉ có thể giúp đỡ, chỉ có thể cổ võ cho hương linh tu tập, nhưng người thẩm định việc tu tập chính là Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Đốt Quần Áo Cho Hương Linh

Vong mới mất có cảm thấy lạnh lẽo, cần phải đốt quần áo ấm áp, cúng cho vong không?
Nếu người mới mất đã được liệm với đầy đủ y phục rồi thì không cần thiết; chỉ trừ khi nào mình biết đích xác rằng người đó không có đầy đủ y phục trên người, hoặc không được liệm một cách đàng hoàng, lúc đó mới cúng cho vong quần áo, tất cả những vật dụng cần thiết để cho vong mặc vào.
Nếu trường hợp bắt buộc phải cúng quần áo cho vong, nên cúng đồ thật. Đồ bằng giấy thì vong sẽ sử dụng trong một thời gian ngắn rồi cũng sẽ tiêu đi, nhưng đồ thật thì vong sẽ giữ được lâu hơn. Thường thì nên cúng cho vong hoặc chính đồ của họ lúc còn sanh tiền, hoặc là đồ mới, không nên lấy đồ cũ của người khác mà cúng cho vong; mỗi người, dù sống hay đã chết, đều mang trên người một cái mùi riêng của chính họ, cho nên, hoặc là quần áo của chính họ, hoặc là quần áo mới không có mùi, chưa có ai mặc qua, như vậy vong mới dễ dàng tiếp nhận.
Đã là một cái vong, tức là ở vào trạng thái vô hình, tại sao lại có cảm giác lạnh lẽo, cần quần áo?
Thật sự ra, vong linh chỉ là một cái hơi thôi, rất nhẹ. Tuy nhiên vì vong mới mất, ký ức chưa phai, A Lại Da Thức còn rất mạnh, cho nên vong cảm nhận rất dễ dàng; một người đã mất từ lâu, sự cảm nhận cũng sẽ yếu đi rất là nhiều.
Do ở sự cảm nhận còn rất mạnh, cái vong vừa mới mất, nhìn thấu suốt được những gì xảy ra chung quanh họ.
Gia đình vẫn còn kia, người thân vẫn còn đó, nhưng lạ quá, sao mặt ai cũng buồn bã, đầm đìa nước mắt? Việc gì đã xảy ra? Vong nôn nóng muốn biết rõ nguyên do, nhưng hình như hỏi ai, ai cũng không buồn đáp lại!
Vong ngơ ngác trước một hoàn cảnh mới, cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, mọi người chung quanh hình như trở nên xa lạ, không tỏ ra mừng rỡ, để ý đến vong.
Vong chưa nhận ra được rằng mình đã “CHẾT,” bắt đầu sợ hãi trong một khung cảnh mới. Sự sợ hãi đó khiến cho chút hơi ấm cuối cùng mà thần thức đã mang theo khi thoát ra khỏi thân xác, sẽ tan biến dần đi.
Sự sợ hãi càng gia tăng, hơi ấm càng tan nhanh. Khi đó, vong sẽ cảm thấy lạnh và xiểng niểng như người bị đói.
Thật sự ra, sự đói lạnh chỉ là một sự cảm nhận của vong linh mà thôi. Cảm nhận rằng cái chung quanh quen thuộc của mình không còn. Khi còn sống, vong được bao bọc bởi một căn nhà ấm áp, trên một cái giường cũng ấm áp, và chung quanh hơi người cũng ấm áp, có lò sưởi ấm áp, và được no nê. Thoắt một cái, thần thức thoát ra khỏi thân xác, bỗng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng và sợ hãi.Người còn sống cũng có cùng một cảm giác như thế mỗi khi sự sợ hãi dâng cao, thần kinh căng thẳng tột độ, sau cơn sợ đó rồi thì mệt lả người, vừa đói, vừa run, vừa lạnh!
Vì vậy mà cần phải cho vong nhập vị!
Người chủ lễ theo đúng nghi thức, giúp cho vong nhập vị để vong được an trụ trong một nơi không quá rộng rãi, vong sẽ cảm thấy ấm áp hơn và đỡ sợ hãi hơn.
Triệu Thỉnh Hương Linh

Người chủ lễ thành tâm, chân chính, sẽ giao cảm một cách rất dễ dàng với hương linh thân nhân, chỉ cần một lời khấn là hương linh đó sẽ hiện đến ngay. Không cần phải trì Chú triệu thỉnh.
Tuy nhiên để bảo vệ người chủ lễ, việc triệu thỉnh vong nên nhờ Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát giúp đỡ.
Người chủ lễ thành tâm khấn trước bàn thờ vong như sau. Đánh 3 tiếng chuông, chắp tay khấn:
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (3 lần)

Cúi lạy Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát.

Cúi lạy các vị Hộ Pháp đang bảo vệ cho Hương linh tên là ________ Pháp danh ________ sanh ngày ________ mất ngày ________ hưởng thọ ____ tuổi.

Con tên là ________ hôm nay đứng làm chủ lễ giúp siêu độ cho vong linh tên ________ Pháp danh ________.

Cúi xin Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát cùng hai vị Hộ Pháp đưa giúp hương linh đến ngay Đạo Tràng để hành lễ.

Cúng Cơm Cho Hương Linh

Vấn đề cúng cơm trong 49 ngày, cúng bao nhiêu lần, cúng những thức ăn gì?
Đúng lý ra, vong cần Pháp thực hơn cần vật thực. Tuy nhiên, lòng thương yêu của người còn sống đối với thân nhân quá cố được biểu lộ  bằng cách cho ăn, chớ thật sự ra, vong không cần phải ăn đâu!
Vong cần Pháp thực để có thể hiểu rõ, để có thể rung cảm được. Một khi rung cảm được thì vong có thể siêu được một cách dễ dàng.
Tuy vậy, muốn cho vong ăn thì cũng được; nếu có nhiều thì giờ thì cho vong ăn mỗi ngày, nếu không có nhiều thì giờ thì cho vong ăn mỗi tuần, hay mỗi hai tuần, tùy ở lòng hảo tâm của người chủ lễ, không nhất thiết lắm.
Một người khi còn tại thế, có thể ăn bất kỳ một con vật nào hợp với khẩu vị của họ, nhưng khi đã bỏ xác thân rồi, bất luận là dân tộc nào, tôn giáo nào, vong cũng chỉ hưởng đồ thanh nhẹ, không hưởng những đồ nặng được (như tôm, cua, sò, ốc, thịt, cá…).
Trong thời gian người chủ lễ hành lễ siêu độ cho vong, người chủ lễ bắt buộc phải trường chay trong 49 ngày, có thể dùng những thức ăn của người chủ lễ để chia lại cho vong cũng rất tốt; tức là tuyệt đối phải cúng thức ăn chay cho Vong.

Biến Thực Biến Thủy

Khi dâng cúng đồ ăn thức uống cho vong, người chủ lễ có cần phải trì Chú biến thực biến thủy không?
Biến thực biến thủy là biến đồ ăn thức uống ra nhiều để tất cả các vong đều nhận được cả.
Nếu cúng cho 2 vong linh cùng chung một bàn thức ăn thì lúc đó phải biến thực biến thủy. Nếu cúng cho 2 vong linh ở 2 bàn thờ vong khác nhau thì không cần phải biến thực biến thủy. Thức ăn của vong linh nào thì vong linh đó hưởng khi được dâng cúng.
Nếu cúng cho nhiều vong linh ở tại 01 bàn thờ vong thì phải biến thực biến thủy để tất cả các vong đều nhận được đồ ăn thức uống.[1]
Việc trì Chú Biến Thực Biến Thủy đòi hỏi một sự quán tưởng. Người chủ lễ chưa biết tu tập, đem tâm lực của mình để siêu độ cho Hương Linh, nên tránh những việc khiến cho mình lúng túng, không trôi chảy trong khi hành lễ - vả lại thân nhân quá cố cũng chỉ một người, cho nên lấy tâm thành khấn nguyện khi dâng cúng thức ăn cho hương linh là đủ rồi.
Tất cả mọi việc không nên cưỡng cầu, làm trong khả năng gánh vác được của mình. Điều quan trọng chính là sự Thành Tâm, Thành Ý của mình đối với vong linh.
Thức ăn được bày ra để cúng cho vong, cũng chỉ tượng trưng một vài món, chứ không cần phải quá nhiều. Vong không ăn và nuốt như người đời đâu! Vong chỉ hưởng hơi thôi, vì có thân xác đâu để mà ăn với uống. Tất cả mọi thứ cũng chỉ là qua Ý Thức mà thôi.

Khai Yết Hầu

Nên nhớ rằng: vong linh chỉ là một cái bóng rất nhẹ, cần phải trì Chú Khai Yết Hầu,[2] vong mới có thể hấp thụ dễ dàng được hết những cái hơi từ ở thức ăn dâng cúng.
Trong thời gian 49 ngày, vong linh còn cảm giác mình hiện hữu, do đó mà mới có vấn đề đói lạnh. Sở dĩ có vật thực là tại vì hương linh chưa nhận thức được rằng mình đã mất, cho nên vẫn còn cảm giác đói no, vì vậy mà phải cho hương linh được thỏa cái cảm giác đó của mình. Nhưng muốn cho hương linh thỏa được cái cảm giác đó, phải có câu thần Chú Khai Yết Hầu để khơi dậy cái thức của hương linh, giúp hương linh nhận ra rằng đây là đồ ăn thức uống. Khi hương linh nhận biết được thì hương linh sẽ hấp thụ được, nếu hương linh không nhận biết được thì sẽ không hấp thụ được.
Cho nên việc hương linh hấp thụ được lý cao siêu của lời Kinh, của câu trì Chú, niệm Phật, của lời giảng Pháp, sẽ giúp cho cái Thức của hương linh sáng rực lên. Pháp thực cần hơn vật thực ở điểm đó vì sẽ giúp cho cái thức của hương linh được sáng lên, tức là cho hương linh cái Trí Huệ.
Với cái Trí Huệ đó, hương linh mới nhận ra được hướng đi của mình và biết được nên đi về đâu, nếu có sự chọn lựa giữa Cõi Trời hay Cõi Phật hoặc Cõi Người. Thời gian 49 ngày là thời gian “đặc ân.” Dù rằng khi còn sống, hương linh không đủ tư cách để được vãng sanh về cõi Cực Lạc hay được về Cõi Trời, nhưng nếu trong thời gian 49 ngày, hương linh hết dạ chân thành ăn năn sám hối, biết bỏ xuống hết tất cả những phiền não và nhận chân ra được rằng mình đã làm điều sai trái, hương linh sẽ có toàn quyền trên sự lựa chọn của mình giữa 3 cõi Phật – Trời – Người.
Vật thực dâng cúng cho vong, ngoài trà, nước hoặc nước ngọt, có nên cúng rượu hoặc bia hay không?
Nên nhớ rằng: vật thực cho vong gồm tất cả những gì thật là giản dị thì vong sẽ nhận được, còn những gì rườm rà vong khó lòng nhận được.
Sắp dọn cho vong ăn có cần phải đặt chén, dĩa, muổng, đũa hay không?
Thật ra vong cũng không cần đến muỗng nỉa gì hết, vong chỉ hưởng mùi thôi. Cho nên, cần phải dùng những thức ăn thật là thanh.

Vong Thật Sự Cần Những Gì?

Điều quan trọng không phải là cho vong ăn, mà chính là phải giúp cho vong sám hối, sám hối rất nhiều!
Khi một người bỏ thân xác, không phải rằng chỉ một hiện kiếp, là người đó có thể thanh toán hết tất cả nghiệp lực của mình trong quá khứ, đó là chưa kể rằng trong hiện kiếp, người đó đã còn tạo ra những nghiệp lực mới nữa. Cho nên vong phải sám hối, sám hối không ngừng. Vì vậy thời giờ cho vong ăn, nên để dành cho vong sám hối, niệm Phật và giảng Pháp cho vong nghe.
Cho nên, đừng quan trọng hóa việc cho vong ăn, đó là tư tưởng thường tình của chúng sanh, có cho ăn thì mới tỏ rõ được tấc lòng thương yêu, trìu mến. Đối với một vong linh, làm sao cho thần thức rung động nhanh chóng để tìm ra đúng con đường đi kế tiếp của mình, đó mới là một tình thương đúng nghĩa, một sự chắt chiu hợp lý, hợp tình của người ở lại.
Người đời đặt ra rất là nhiều nghi thức, bảo phải như vầy, như vầy, và biến cái không thành cái có.
Cái không là cái gì?
Cái không là vong linh. Biến thành cái có, là vong linh biến trở lại làm người. Cho nên đặt ra rất nhiều nghi thức rườm rà. Thoạt xem qua thì tưởng là có ích lợi cho vong, nhưng thật sự ra thì không có gì ích lợi cả.
Vong cần phải bỏ xuống cái gánh nặng của mình. Nếu một vong linh nào vào giờ phút lâm chung, không tự siêu thoát được, thì phải chắc chắn rằng, vong linh đó bị vướng mắc.
Hơi ấm cuối cùng dù rằng tụ lại ở ngực, tức là được trở lại kiếp Người, nhưng vẫn phải siêu độ, vì sao?
Vong linh đó không bị đọa, có nghĩa là không bị vướng mắc quá nhiều đến nỗi phải bị đọa, nhưng vẫn có vướng mắc; không có vong linh nào trở lại kiếp người mà không bị vướng mắc cả. Cho nên, nếu hơi ấm cuối cùng tụ từ ngực trở xuống, bắt buộc phải siêu độ để cho các vướng mắc đó được trở nên nhẹ nhàng.
Mà những vướng mắc đó là cái gì? Tức là những nghiệp lực của mình, nhân quả mình tạo ra, những điều sai trái mình làm, những suy nghĩ sai lầm của mình. Tất cả những cái gì không nằm trong chữ Đúng, đều phải giúp cho vong cởi bỏ xuống. Những nỗi oan tình, ẩn ức, những uẩn khúc không bày tỏ được… tất cả những điều đó thuộc về Sân Hận, khiến cho vong linh khó lòng cất bước. Vì vậy bắt buộc phải siêu độ.
Những người được ra đi tức khắc, sinh về Cõi Trời hay Cõi Phật, những người đó không cần phải siêu độ. Cho nên, siêu độ cho vong linh, điều quan trọng là phải làm sao để cho vong linh thấu hiểu được rằng, vong linh ra đi mang hành trang quá nhiều, mà hành trang đó không phải là những hành trang quý báu. Hành trang đó chỉ là những cục đá mà thôi, mang theo làm gì cho nặng nề. Do đó, cần phải giúp cho vong linh soạn lại cái hành trang của mình, để cho được nhẹ nhàng hơn.
Tất cả những nghi thức nào giúp cho vong linh được nhẹ nhàng cất bước, nhìn thấu suốt được con đường mình đi, nói tóm lại, là giúp cho vong linh sớm siêu thoát, các nghi thức đó đều chấp nhận được. Ngoài ra đó, những gì rườm rà, không ích lợi cho vong linh thì không nên đặt thành vấn đề và không nên xem nó là cần thiết.
Vong linh cần Pháp thực hơn là vật thực. Cúng một chén cơm, cúng hai chén cơm, cúng ba chén cơm hay cúng một chục chén cơm, vong linh cũng chỉ hưởng được hơi cơm mà thôi. Không nhất thiết phải là mâm cao cỗ đầy, đồ ăn phải thật là ngon, chỉ cần làm sao đồ ăn thật tinh khiết, để vong có thể hấp thụ được cái hơi mà thôi, càng tinh khiết chừng nào thì vong linh càng dễ dàng hấp thụ chừng nấy.
Nếu không thể nào nấu ra thành món ăn, chỉ cần 1 chén cơm, vong linh cũng vẫn hưởng được, không sao cả.


BIẾN THỰC CHƠN NGÔN
Nam mô tát phạ đát tha nga đa, phạ lồ chỉ đế. Án tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (7 lần)
CAM LỘ THUỶ CHƠN NGÔN
Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha. Án tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta bà ha. (7 lần)
KHAI YẾT HẦU CHƠN NGÔN:
Án, bộ bộ đế rị, dà đa rị đát đa nga đa da. (7 lần)
Việc Siêu Độ Cho Hương Linh Có Nhiều Đứa Con

Một người cha hay một người mẹ có nhiều đứa con, nếu hoặc cha hay mẹ mất đi, con cái của họ đồng phát tâm hoặc có một số phát tâm để siêu độ thì:
1.    Nếu con cái cùng tụ về một nơi, cần ghi nhận:
a.    Người con biết tu tập sẽ đảm nhận vai trò chủ lễ. Những người con khác đem Tâm Lực của mình phụ trợ cho chủ lễ trong việc siêu độ.
 
b.    Nếu có nhiều người con cũng biết tu tập thì mỗi người thay phiên nhau làm chủ lễ; người này hành lễ xong thì tới phiên người kia.

Điều cốt yếu là giúp cho vong linh sám hối nhiều chừng nào tốt chừng nấy, việc giảng Pháp cũng không kém phần quan trọng. Tỉ tê giảng giải để cho vong hiểu và thấm thía.

Chỉ cần cho vong ăn một lần trong ngày, nhưng có thể giảng Pháp cho vong nghe 3 lần trong ngày cũng vẫn rất tốt.

Các vị chủ lễ chia phiên nhau mà hành lễ, 2 lần hay 3 lần trong ngày đều rất lợi lạc cho vong linh.
 
c.     Ngoài các người con, còn có các thân nhân khác, bạn bè, thân quyến, mỗi người đồng đem tâm thành của mình mà siêu độ cho vong linh, chắc chắn rằng vong linh sẽ sớm thoát khỏi những vướng mắc trong lòng mà an ổn ra đi.
Nên nhớ kỹ một điều, đem hết sự chân thành siêu độ cho vong linh, công đức đó, người hành trì siêu độ hưởng 6 phần, vong linh hưởng được 1 phần.
Nếu càng có nhiều tấm lòng thành, thì công đức vong linh được hưởng càng nhiều, sự ra đi xem như cái búng tay, và hành trang của vong linh khi đó lại càng thêm nặng trĩu các đồng tiền Công Đức.
Người đời thường đưa tiễn vong linh bằng câu chúc: “Cầu cho Hương Linh được siêu thăng Tịnh Độ.”
Trong trường hợp này, có bắt tay vào việc siêu độ cho vong linh, có hết dạ chân thành siêu độ cho vong linh, có trân trọng trao tặng cho vong linh những đồng tiền Công Đức, các thân bằng quyến thuộc mới thể hiện một cách tuyệt vời và đúng nghĩa lời chúc kể trên.
Cần phải luôn luôn tâm niệm rằng: Việc siêu độ đòi hỏi một sự Thành Tâm Thành Ý tối đa. Nếu kẻ thành tâm chỉ có một, mà người “lơ là” lại số đông, thì kết quả cũng chỉ là một mà thôi! Vong linh cũng chỉ hưởng có một phần công đức do người thành tâm thành ý ban cho.
2.    Nếu con cái ở rải rác nhiều nơi:
a.    Những người biết tu tập hoặc chưa biết tu tập nhưng có Tâm Lực mạnh cũng muốn đứng ra siêu độ cho cha hoặc mẹ mình, tất cả sẽ hội ý với nhau và ấn định thời khóa siêu độ.
 
b.    Người chủ lễ chánh thì chọn một buổi nào đó trong ngày. Các người khác chia nhau các buổi còn lại.
 
c.     Việc siêu độ của từng đứa con, sẽ giúp cho vong linh cảm nhận được một sự ấm áp của không khí gia đình luôn tràn đầy, do đó vong linh sẽ cảm thấy ít đói lạnh hơn.
Ghi Nhớ:
Trước khi bắt tay vào việc hành trì siêu độ, chủ lễ nên đọc thật kỹ từng phần của những lời giảng giải, ghi chú những phần nào, những chi tiết nào cần thiết phải làm, có lớp lang, thứ tự để dễ dàng tuần tự tiến hành, không vấp váp, không lúng túng.
Hướng Dẫn Phần Nghi Thức
Việc tu tập bao gồm:
·       Sám hối
·       Trì Chú
·       Niệm Phật
Đây là những nguyên tắc căn bản áp dụng cho người sống lẫn người chết.
Người đã lìa đời, không còn đủ căn thức để tự buộc mình hành việc tu tập mà cầu giải thoát, tháo gỡ những vướng mắc mình tự buộc ràng từ khi còn tại thế. Có khi cũng không hiểu, không nhận chân ra được là mình đã làm sai, hay hiểu sai về một việc gì.
Khi còn sống không tha thiết đến việc tu tập, trí huệ không được phát sáng. Khi đã bỏ báu thân rồi, thần thức cũng tối mò mò, không phân định được hướng đi của mình.
Người chủ lễ có bổn phận giúp cho hương linh đốt sáng ngọn đèn trí huệ của mình qua việc Sám Hối, Trì Chú và Niệm Phật.
Sau đó, dùng lời Pháp để giảng dạy, dẫn dắt cho vong “MỞ TRÍ,” phân biệt được điều đúng sai, nên hay không nên. Vong có được chút trí huệ phát sáng, tìm đường thác sanh rất dễ dàng.
Sám Hối

Phật Thuyết Kinh Thập Nhị Phật Danh So Sánh Công Đức Trừ Chướng Diệt Tội là một món quà vô cùng quý giá cho chúng sanh trong việc sám hối các nghiệp chướng của mình.
Mười hai vị Phật được Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật nêu lên, đặc biệt có một oai thần lực rất lớn trong vấn đề giúp cho chúng sanh sám hối.
Nếu chúng sanh nào thật lòng ăn năn sám hối Nghiệp Tội của mình, đem hết Tâm Lực, Ý Lực, Cường Lực để vào việc sám hối, tức khắc các tội lỗi của mình, những điều sai trái gây tạo, nhờ vào oai thần lực của các Vị Phật này, mà được “Lắng Xuống.”
Lắng xuống, chớ không phải tiêu tan! Lắng xuống và tiêu tan là hai trạng thái khác nhau.
·       Tiêu tan là không còn hiện hữu.
·       Lắng xuống là vẫn còn hiện hữu ở nơi đó, nhưng không nổi lên để quấy phá.
Mười hai vị Phật này giúp cho những tội lỗi đó được lắng xuống. Rồi thì sự quyết tâm tu tập hằng ngày, nếu được tiếp tục đều đặn, sẽ giúp cho các tội đó được phai đi cho đến khi biến mất.
Chúng sanh thường hay nghĩ sai, bảo rằng: niệm các danh hiệu Phật này rồi thì bao nhiêu tội chướng đều tiêu tan hết. Không phải như vậy, phải hiểu cho tận cùng thâm sâu của việc sám hối. Khi một người hết dạ chân thành sám hối, các nghiệp tội mình làm sẽ được nhận biết và lắng xuống. Nhưng, muốn cho các nghiệp tội này được tiêu tan, thì đòi hỏi phải có sự dốc tâm tu tập. Người hành trì nghi thức sám hối này mỗi ngày, sẽ giúp cho các tội chướng của mình lắng xuống, rồi thì với tất cả Tâm Lực, Ý Lực, Cường Lực khi tu tập, sẽ làm cho từng tội, từng tội được phai đi … phai đi.
Oai lực của mười hai vị Phật này giúp cho bao nhiêu tội lỗi của hành giả được lắng xuống. Đó là điểm khác biệt giữa nghi thức sám hối này với tất cả những nghi thức sám hối khác.
Hành giả có thể niệm bất kỳ danh hiệu Phật nào khi hành trì nghi thức sám hối. Tuy nhiên, phải ghi nhớ rằng: Các vị Phật đó chỉ chứng minh tấm lòng ăn năn sám hối của hành giả chớ không cho ra một oai lực nào cả.
Riêng đối với các vong linh, oai thần lực của mười hai vị Phật này rất là mạnh mẽ và khiến cho các vong linh được nhẹ nhàng, không còn phải đeo mang những tội, nghiệp mà mình đã tạo nên từ tiền kiếp, cho đến kiếp vừa qua, khiến cho vong linh rất là nặng nề. Oai thần lực của các vị Phật này làm cho các nghiệp, tội đó được lắng xuống, nhẹ nhàng, không còn một cảm giác nặng nề nữa. Tuy nhiên, nó vẫn còn nằm ẩn trong A Lại Da Thức của vong linh, để rồi sau đó, vong linh cần phải đem công năng tu tập của mình mà làm tiêu lần đi nghiệp tội của mình.
Ngoài nghi thức sám hối Thập Nhị Phật Danh So Sánh Công Đức Trừ Chướng Diệt Tội, còn có các nghi thức sám hối khác như:
1.    Mười hai vị Phật trong Kinh Vô Lượng Thọ:

Những vị Phật này có liên quan rất là mật thiết với Cực Lạc, nhưng cũng là ở vào vai trò Chứng Minh chớ không đưa oai lực để giúp cho hành giả hay cho vong linh.
 
2.    Trong Nghi Thức Hồng Danh Bửu Sám: hành giả phải trì niệm danh hiệu của 88 vị Phật.
 
3.    Nghi thức Sám Hối do cố Hòa Thượng Thích Trí Tịnh soạn, gồm có 35 vị Phật rút ra từ Kinh Đại Bảo Tích.

Trong 3 nghi thức Sám Hối kể trên, những vị Phật chỉ đóng vai trò “Chứng Minh” mà thôi, chớ không thực sự đóng góp vào việc làm “Lắng Xuống” các nghiệp tội của hành giả hay của vong linh.
 
4.    Lương Hoàng Sám: Người Xuất gia lẫn tại gia đều hành trì được Lương Hoàng Sám, nương vào lòng Từ Bi của rất nhiều vị Phật trong 10 phương.

Tuy nhiên, nghi thức sám hối này rất khó có thể giúp cho người chủ lễ siêu độ cho vong linh vì quá sức dài, mất nhiều công sức, chỉ trừ khi nào thân nhân dốc lòng quyết tâm, bất kể ngày giờ, bất kể công sức thì mới dùng đến nghi thức này.
 
5.    Từ Bi Thủy Sám Pháp: để giải oan trái giữa đôi bên, mà oan trái đó rất là nặng nề và đã trải qua nhiều đời, nhiều kiếp rồi.
Sám Pháp này không dùng cho việc sám hối đâu! Trong trường hợp siêu độ cho vong linh, không dùng nghi thức này.
6.Trì Chú
7.     
8.    Người chủ lễ sẽ hướng dẫn để cho hương linh trì 3 câu Chú dưới đây nhiều chừng nào tốt chừng nấy!

9. 1. Chơn Ngôn Siêu Độ Cho Hương Linh

10. Âm: HA-ANH CA THU SHU PHU!
11. Vong linh thật sự cần cái gì? Vong linh cần được nhẹ nhàng để ra đi. Nếu người chủ lễ không biết một cách rất rõ ràng ý muốn của vong linh, và đạt chưa đến được một cách sâu rộng ý muốn đó, thì vẫn có thể giúp cho vong linh được nhẹ nhàng, cởi bỏ những khúc mắc, mà tiếp tục đi theo nghiệp của mình.
12. Người chủ lễ đem hết tâm lực của mình cùng với vong linh trì câu Chú này, giúp cho vong từ từ thấm lần … thấm lần. Câu Chú có tác dụng là giúp cho vong linh được nhẹ lần … nhẹ lần để ra đi.

13.              2. Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn

14. Tiếng Phạn: OṂ MAṆI PADME HŪṂ
15. Tiếng Việt: ÁN MA NI BÁT DI HỒNG
16. Lục Tự Đại Minh rất là mạnh, công năng của câu thần Chú này có tính cách dời non, lấp biển, Vị chủ lễ cũng như hương linh đều rất cần trì câu Chú này để giúp Trí Huệ phát sáng. Vong linh trì Lục Tự Đại Minh xem như là đốt lên một điểm sáng, rồi từ đó tỏa rộng ra, không khác một ánh lửa, và đồng thời Trí Huệ được phát sáng, giúp cho hương linh cảm thấy ấm áp, phân định được mọi sự việc chung quanh mình, và thâm nhập được lời giảng Pháp của chủ lễ.

17.              3. Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú

18. Tiếng Việt:
19. Nam mô A di đa bà dạ, đa tha già đa dạ. Đa điệt dạ tha: A di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.
20. Tiếng Phạn:
21. Namo amitābhāya, tathāgatāya. Tadyathā: Amṛtodbhave, amṛta siddhaṃbhave, amṛta vikrānte, amṛta vikrānta, gamine gagana, kìrtti kare svāhā.
22. Cách đọc theo tiếng Phạn:
23. Nam mô a mi ta ba da, thách ta ga ta da. Tách da tha: A mia tô út pha wê, a mia ta xăm pha wê, a mia ta vi ca ranh tê, a mia ta vi ca ranh ta, ga mi ni ga ga na, kia ti ca ri soa ha.
24. Người hay trì tụng Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú sẽ được Đức A Di Đà Phật thường trụ trên đỉnh đầu của người ấy, ngày đêm ủng hộ, không để cho oan gia được dịp thuận tiện hãm hại, đời thường an ổn, sau khi mạng chung, được tùy ý vãng sanh.
25. Người chủ lễ cần hướng dẫn cho vong linh trì thần Chú này thật nhiều, kèm với niệm Phật thật nhiều, để cơ hội được vãng sanh càng lên cao hơn.
26.  
Niệm Phật
Nếu trong gia đình có người rảnh rỗi , hoặc có trẻ em nào có thể dạy cho các em niệm Phật được, thì khi đến phần niệm Phật, vị chủ lễ nên nhờ người phụ cùng niệm Phật, để tạo một cái lực mạnh giúp cho vong niệm Phật được trơn tru.
Nên ghi nhớ:  Cố gắng đừng để tâm viên ý mã trong lúc niệm Phật. Phải nhứt tâm mới có được hào quang phát sáng khi niệm Phật, do đó mới bao bọc được vong trong cái hào quang đó.
Các trẻ thơ tâm không gợn bất kỳ tư tưởng nào. Nên tập cho các cháu niệm Phật hằng ngày, vừa lợi lạc cho các cháu, mà cũng rất là hữu ích khi cần thiết.
Niệm Phật càng nhiều càng tốt, tối thiểu phải là 10-15 phút.
Người chủ lễ khuyên vong nếu muốn được vãng sanh về Cõi Phật, phải niệm Phật liên tục, niệm Phật không phải chỉ trong khóa lễ tu tập, mà sau khi hồi vị rồi, cũng vẫn phải tiếp tục niệm Phật. Càng niệm Phật nhiều, vong càng cảm thấy nhẹ nhàng, dễ dàng cất bước.
Vai Trò Của Trẻ Thơ Trong Việc Siêu Độ

Tâm của trẻ thơ rất là trong trắng, lời của trẻ thơ thốt ra là một lời chân thật không che đậy, cho nên cần phải dạy cho các cháu niệm Phật hay trì Chú. Một câu niệm Phật của các cháu cũng sẽ giúp cho vong linh rất … rất là nhiều. Câu niệm Phật rất quan trọng, một người niệm Phật với một tâm như như bất động, không bị tâm viên ý mã, nói tóm lại là với một Tâm Bình thì mới phóng hào quang được. Đối với những đứa bé khi niệm Phật, câu niệm Phật của chúng sẽ phóng hào quang, vì đó là một tâm hoàn toàn trong suốt. Người niệm Phật giữ tâm bình, có nghĩa là giữ tâm của một đứa bé (còn được gọi là Tâm Đồng Tử).
Cho nên dạy cho trẻ thơ niệm Phật để siêu độ cho người quá cố thì rất là đúng và cần thiết. Đối với những đứa trẻ có thể trì Chú được, nên dạy cho các cháu câu thần Chú. Nếu trì Chú thì có thể trì Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn, hoặc Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú. Trì 2 câu Chú này mà giữ một tâm bình, tâm trong sáng, thì câu Chú sẽ phóng hào quang rất là chói chang. Vong linh được bao che trong hào quang đó, sẽ cảm thấy nhẹ nhàng thơ thới, và những người đang hành trì việc siêu độ, cũng sẽ được bao che bởi ánh hào quang của Lục Tự Đại Minh Chơn Ngôn, hoặc của Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú.